Phần 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH, QUAN ĐIỂM CỦA
ĐẢNG
VỀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA, CON NGƯỜI
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA, CON NGƯỜI
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và yêu cầu xây dựng nền văn hóa mới
1.1. Quan điểm của
Hồ Chí Minh về văn hóa và vai trò của văn hóa, mối quan hệ giữa văn hóa với các
lĩnh vực khác
Từ những cơ sở
khách quan, khoa học, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã sớm đưa ra khái niệm văn
hóa, quan điểm xây dựng nền văn hóa dân tộc. Người đúc kết nội hàm khái niệm
văn hóa như sau: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người
mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học,
tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc,
ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là
văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu
hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống
và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Khái niệm văn hóa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra
đã khái quát nội dung rộng nhất của phạm trù văn hóa, bao hàm các hoạt động vật
chất và tinh thần của con người cùng với các giá trị mà con người sáng tạo ra;
đồng thời, khái niệm văn hóa cũng chỉ ra nhu cầu sinh tồn của con người với tư
cách chủ thể hoạt động của đời sống xã hội chính là nguồn gốc, động lực sâu xa
của văn hóa.
Về vị trí, vai trò
của văn hóa, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa đứng ngang hàng với các lĩnh
vực hoạt động khác của xã hội: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn
đề cùng phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã
hội, văn hóa”.
+ Quan điểm văn hóa là mục tiêu của cách mạng. Cả cuộc đời Hồ Chí
Minh phấn đấu cho mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nội dung xây
dựng chủ nghĩa xã hội bao gồm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Như vậy, văn
hóa là một mục tiêu của cách mạng. Mục tiêu đó - nhìn một cách tổng quát - là
quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc; là khát
vọng của nhân dân về các giá trị chân, thiện, mỹ.
+ Quan điểm văn hóa là động lực của cách mạng được hiểu là thúc
đẩy xã hội phát triển. Di sản Hồ Chí Minh cho ta một nhận thức về động lực phát
triển đất nước, bao gồm động lực vật chất và tinh thần; động lực cộng đồng và
cá nhân; nội lực và ngoại lực. Tất cả quy tụ ở con người và đều có thể được xem
xét dưới góc độ văn hóa. Tuy nhiên, nếu tiếp cận các lĩnh vực văn hóa cụ thể
trong tư tưởng Hồ Chí Minh, động lực có thể nhận thức ở nhiều phương diện.
+ Quan điểm văn hóa chính trị là một
trong những động lực có ý nghĩa soi
đường cho quốc dân đi, lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự
chủ. Tư duy biện chứng, độc lập, tự chủ, sáng tạo của cán bộ, đảng viên là một
động lực lớn dẫn đến tư tưởng và hành động cách mạng có chất lượng khoa học và
cách mạng.
+ Quan điểm văn hóa là một mặt trận. Mặt trận văn hóa là cuộc đấu tranh cách mạng trên lĩnh vực văn hóa. Nội
dung mặt trận văn hóa phong phú, đấu tranh trên các lĩnh vực tư tưởng, đạo đức,
lối sống... của các hoạt động văn nghệ, báo chí, công tác lý luận, đặc biệt là
định hướng giá trị chân, thiện, mỹ của văn hóa nghệ thuật. Vì vậy, theo Người: anh
chị em văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy; cũng như các chiến sĩ khác,
chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
+ Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí
Minh là vì nhân dân. Tư tưởng văn hóa của Người phản ánh khát vọng hạnh phúc
của nhân dân, phục vụ nhân dân. Theo Người, mọi hoạt động văn hóa phải trở về với
cuộc sống thực tại của quần chúng, phản ánh được tư tưởng và khát vọng của quần
chúng. Những người hoạt động trên lĩnh vực văn hóa phải hiểu và đánh giá đúng
quần chúng. Sáng tác của quần chúng như tục ngữ, ca dao là những hòn ngọc quý.
Họ cung cấp cho những nhà hoạt động văn hóa những tư liệu quý. Quần chúng là
những người thẩm định khách quan, trung thực, chính xác các sản phẩm văn nghệ.
Nhân dân phải là những người được hưởng thụ các giá trị văn hóa.
- Về mối quan hệ
của văn hóa với các lĩnh vực khác: Người đã chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ giữa
văn hóa với các lĩnh vực khác. Văn hóa không thể đứng ngoài “mà phải ở trong
kinh tế và chính trị” và ngược lại kinh tế, chính trị cũng nằm “trong văn hóa”.
Đời sống xã hội được xây dựng, kết cấu đan cài từ bốn lĩnh vực: chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội; trong đó, văn hóa là nền tảng tinh thần của đời sống xã
hội, là lĩnh vực thuộc về kiến trúc thượng tầng của xã hội. Từ đó, một trong
những vấn đề cơ bản, hệ trọng đặt ra là phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa
lĩnh vực văn hóa với chính trị, kinh tế, xã hội.
1.2. Quan điểm Hồ
Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới
Trước Cách mạng
Tháng Tám năm 1945, trong khi đưa ra quan niệm về ý nghĩa của văn hóa, Hồ Chí
Minh quan tâm đến việc xây dựng nền văn hóa dân tộc với năm nội dung: xây dựng
tâm lý là tinh thần độc lập tự cường; xây dựng luân lý là biết hy sinh mình,
làm lợi cho quần chúng; xây dựng xã hội, là mọi sự nghiệp liên quan đến phúc
lợi của nhân dân; xây dựng chính trị là một nền chính trị dân quyền; xây dựng
kinh tế là nền kinh tế tự chủ, tự lực, tự cường, phát triển
Trong kháng chiến
chống thực dân Pháp, Hồ Chí Minh
khẳng định lại quan điểm của Đảng ta từ năm 1943 trong Đề cương văn hóa Việt Nam về phương châm xây dựng nền văn hóa mới,
đó là một xây dựng nền văn hóa vận động theo nguyên tắc dân tộc, khoa học, đại chúng. Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng nền văn hóa có nội dung xã hội
chủ nghĩa và tính chất dân tộc.
Theo Người để xây dựng
nền văn hóa Việt Nam, phải xây dựng một nền văn hoá mới toàn diện, vừa giữ gìn được cốt cách văn hóa dân tộc, vừa bảo đảm tính
khoa học, dân chủ, tiến bộ và nhân văn, hướng đến các giá trị chân - thiện -
mỹ.
Theo Hồ Chí Minh, nền văn hoá Việt Nam là nền
văn hoá có gốc rễ, cội nguồn từ truyền thống văn hoá dân tộc, thể hiện
tâm hồn, cốt cách, bản sắc của con người Việt Nam. Nền văn hoá ấy kế thừa truyền
thống văn hoá của dân tộc ta trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước.
Đồng thời phải biết tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Hồ Chí Minh chỉ rõ
mục đích tiếp thu văn hóa nhân loại để làm giàu cho văn hóa Việt Nam, xây dựng
văn hóa Việt Nam hợp với tinh thần dân chủ. Mối quan hệ giữa giữ gìn cốt cách
dân tộc và tiếp thu văn hóa nhân loại là phải lấy văn hóa dân tộc làm gốc, đó
là điều kiện, cơ sở để tiếp thu văn hóa nhân loại.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và yêu cầu xây dựng
con người
2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về con người, vai
trò của con người
- Về con người: Hồ Chí Minh cho rằng con người là một chỉnh thể, thống
nhất về trí lực, tâm lực, thể lực, đa dạng bởi mối quan hệ giữa cá nhân và xã
hội (quan hệ gia đình, dòng tộc, làng xã, quan hệ giai cấp, dân tộc...) và các
mối quan hệ xã hội (quan hệ chính trị, văn hóa, đạo đức, tôn giáo...). Trong mỗi
con người đều có tính tốt và tính xấu. Người giải thích “chữ người, nghĩa hẹp
là gia đình, anh em, họ hàng, bè bạn; nghĩa rộng là đồng bào cả nước; rộng hơn
nữa là cả loài người”. Con người có tính xã hội, là con người xã hội, thành
viên của một cộng đồng xã hội.
Trong thực tiễn,
con người có nhiều chiều quan hệ: Quan hệ với cộng đồng xã hội (là một thành
viên); quan hệ với một chế độ xã hội (làm chủ hay bị áp bức); quan hệ với tự
nhiên (một bộ phận không tách rời). Nét đặc sắc trong quan niệm của Hồ Chí Minh
về con người là nhìn nhận đặc điểm con người Việt Nam với những điều kiện lịch
sử, những cấu trúc kinh tế, xã hội cụ thể. Cách tiếp cận này đi đến việc giải
quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp rất sáng tạo, không chỉ về mặt đường lối
cách mạng mà cả về mặt con người.
- Về vai trò của con người:
Một trong những điểm nổi bật là Hồ Chí Minh coi con người vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của sự phát triển xã hội. Theo Người, sự nghiệp đấu tranh cách mạng
để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và xây dựng chế độ xã hội mới, giàu
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh…, xét đến cùng, là vì hạnh phúc, vì sự phát
triển toàn diện của con người. Đến lượt mình, con người lại là động lực thúc
đẩy sự phát triển của xã hội. Vai trò to lớn đó của quần chúng nhân dân, trước
hết là nhân dân lao động, thể hiện ở chỗ: Họ là lực lượng chính của sự nghiệp
đấu tranh cách mạng, là lực lượng sản xuất quan trọng nhất và là chủ thể sáng
tạo nên những giá trị vật chất và tinh thần của xã hội.
+ Con người là động lực của cách mạng: Người nhấn mạnh
“mọi việc đều do người làm ra”, “trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân,
trong thế giới không gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của nhân dân”, “Ý dân là ý
trời”, “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng. Nhân dân là những người sáng tạo chân chính
ra lịch sử thông qua các hoạt động thực tiễn cơ bản nhất như lao động sản xuất,
đấu tranh chính trị - xã hội, sáng tạo ra các giá trị văn hóa. Nói đến nhân dân
là nói đến lực lượng, trí tuệ, quyền hành, lòng tốt, niềm tin, đó chính là gốc,
động lực cách mạng.
+ Khẳng định vai trò quan trọng của quần chúng: Hồ Chí Minh nhận
thức sâu sắc rằng, quần chúng nhân dân là lực lượng quan trọng của mọi phong
trào đấu tranh cách mạng. Họ có mặt ở khắp mọi nơi và nếu được dẫn dắt bởi một
tổ chức chính trị có đường lối đúng đắn, khoa học sẽ trở thành một khối thống
nhất, có sức mạnh vô địch; sẵn sàng chiến đấu vì mục tiêu chung của sự nghiệp
cách mạng.
2.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng con người
- Hồ Chí Minh coi
con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách
mạng. Theo Người, “vô luận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to,
từ gần đến xa, đều thế cả”. Xây dựng con người
có ý nghĩa quan trọng, là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, vừa cấp
bách vừa lâu dài, là vấn đề chiến lược. Xây dựng con người là một trọng tâm, bộ
phận hợp thành của chiến lược phát triển đất nước, có mối quan hệ chặt chẽ với
nhiệm vụ xây dựng chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Người nhấn mạnh: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết
cần phải có những con người xã hội chủ nghĩa” và khẳng định: “trồng người”
là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng: Con người phải
được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển, vừa nằm trong chiến lược, phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa nằm trong chiến lược
giáo dục - đào tạo theo nghĩa hẹp: “Vì
lợi ích trăm năm thì phải “trồng người”. “Trồng người” phải được tiến hành
bền bỉ, thường xuyên trong suốt cuộc đời mỗi người, với ý nghĩa vừa là quyền
lợi vừa là trách nhiệm của cá nhân đối với sự nghiệp xây dựng đất nước. Công
việc “trồng người” là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị -
xã hội kết hợp với tính tích cực, chủ động của từng người.
- Về nội dung xây
dựng con người, Hồ Chí Minh cho rằng phải xây dựng con người toàn diện, vừa
“hồng” vừa “chuyên”. Đó là những con người có mục đích và lối sống cao đẹp, có
bản lĩnh chính trị vững vàng, những con người của chủ nghĩa xã hội, có tư
tưởng, tác phong và đạo đức xã hội chủ nghĩa và năng lực làm chủ. Xây dựng con
người toàn diện bao gồm: Có ý thức làm chủ, tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa
và tư tưởng “mình vì mọi người, mọi người vì mình”; cần kiệm xây dựng đất nước,
hăng hái bảo vệ Tổ quốc; có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần quốc tế trong
sáng; có phương pháp làm việc khoa học, phong
cách quần chúng, dân chủ, nêu gương, phải dựa vào quần chúng theo quan
điểm “dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”. Xây
dựng con người phải bằng những phương pháp khoa học, cách mạng. Đặc biệt Hồ Chí
Minh luôn quan tâm đến việc nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá
nhân; bồi dưỡng về năng lực trí tuệ, trình độ lý luận chính trị, văn hóa, khoa
học - kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, sức khỏe.
II. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG VĂN HÓA, CON NGƯỜI
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Từ ngày thành lập
đến nay, Đảng ta luôn luôn coi trọng vai trò của văn hóa và hết sức quan tâm
đến công tác xây dựng văn hóa trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và
xây dựng đất nước, nhất là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đồng
thời, Đảng ta khẳng định: Con người là chủ thể, giữ vị trí trung tâm trong
chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự nghiệp đổi mới.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (7/1998) nêu những quan điểm chỉ
đạo cơ bản, khẳng định “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục
tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội; nền văn hóa mà
chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; là nền văn
hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; xây dựng và
phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ
trí thức giữ vai trò quan trọng; văn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát
triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách
mạng và sự kiên trì thận trọng”.
Về xây dựng con người Việt Nam, Nghị
quyết Trung ương 5 khóa VIII nêu nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam với
những hệ giá trị chung thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế. Đó là những con người có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc,
phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước
thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp
đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Có ý thức
tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung. Có lối sống lành mạnh, nếp sống
văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy
ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. Lao động
chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi
ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội. Thường xuyên học tập, nâng cao
hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống
nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ.
Phải làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội,
trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát
triển. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã
hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người,
với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Phát triển,
nâng cao chất lượng sáng tạo văn học, nghệ thuật; khẳng định và biểu dương các
giá trị chân, thiện, mỹ, phê phán những cái lỗi thời, thấp kém, đấu tranh chống
những biểu hiện phản văn hóa. Đối với nhiệm vụ phát triển con người, Cương lĩnh
khẳng định “con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ
thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với
quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”.
Đến Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày
9/6/2014) khẳng định: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển
toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn,
dân chủ và khoa học.
Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng
định vai trò, ý nghĩa đặc biệt của việc xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam, xác định một trong 12 định hướng phát triển đất nước giai
đoạn 2021 - 2030 là: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức
mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”. Tăng cường đầu
tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và
điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào
dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài
năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động
lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”… “Tập trung nghiên cứu và triển
khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong
thời kỳ mới. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền
thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân,
nhất là thanh niên”…“Từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của
con người Việt Nam; xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết
chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”. Trên
cơ sở những thành tựu đạt được và bất cập, hạn chế còn tồn tại, Đảng ta đưa ra
5 quan điểm về văn hóa, xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ mới: Một
là, văn hóa là nền tảng tinh thần
của xã hội, mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước; văn hóa phải được
đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Hai là, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam
với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa
là nền tảng tinh thần của xã hội, việc giữ gìn “bản sắc văn hóa dân tộc” gắn với hội nhập quốc tế là vô
cùng quan trọng. Ba là, phát
triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để
phát triển văn hóa. Bốn là, xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, chú trọng vai trò của gia đình,
cộng đồng; phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; chú ý yếu tố văn hóa và
con người trong phát triển kinh tế. Năm là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp
của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân là chủ thể sáng tạo,
đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24/11/2021 triển
khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, phát biểu chỉ đạo
tại Hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần khẳng định vai trò to
lớn của văn hóa: “Văn hóa còn là dân tộc còn”. Để tiếp tục xây dựng, giữ gìn, chấn hưng và phát triển nền văn hóa của dân
tộc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ 06 nhiệm vụ phát
triển văn hóa con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Như
vậy, trong dòng chảy của văn hóa Việt Nam sau hơn 35 năm đổi mới cho thấy, nhận
thức của Đảng ta về văn hóa, xã hội, con người ngày càng toàn diện, sâu sắc
hơn. Đặc biệt, Đại
hội XIII của Đảng đã xác định những quan điểm, chủ trương mới, sâu sắc và toàn
diện, đột phá về phát triển văn hóa, con người và nguồn nhân lực. Đây là đường
hướng quan trọng để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vững bước đi lên, lập những
thành tựu mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Việt Nam trong thời đại mới.
Phần 2
PHÁT HUY SỨC MẠNH GIÁ TRỊ VĂN HÓA, CON NGƯỜI,
PHÁT TRIỂN THÁI BÌNH NHANH, BỀN VỮNG
I. NHỮNG GIÁ TRỊ VĂN HÓA, CON NGƯỜI THÁI BÌNH TRONG QUÁ TRÌNH XÂY
DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
1. Quá trình hình thành những giá
trị văn hóa, con người Thái Bình
Mỗi dân tộc nói chung, một địa phương nói riêng đều có lịch
sử hình thành và phát triển khác nhau. Trải
qua quá trình đó, các dân tộc, cộng đồng dân cư của địa phương sáng tạo ra nền
văn hóa của mình. Nói đến giá trị văn hóa truyền thống là nói đến cái lâu dài,
trải qua nhiều thời gian thử thách mà cốt lõi bản chất của nó luôn được giữ vững.
Nói đến giá trị văn hóa truyền thống là nói đến những giá trị tương đối ổn định,
tốt đẹp, tiêu biểu cho dân tộc, địa phương tạo nên bản sắc riêng có của dân tộc
và địa phương đó. Chính vì thế, giá trị văn hóa truyền thống luôn có tính bền vững;
trở thành những nguyên lý đạo đức lớn mà dân tộc, địa phương đó phải dựa vào để
liên kết xã hội, tạo nên sức mạnh nhằm xây dựng và bảo vệ đất nước, quê hương
vì sự tiến bộ của con người và xã hội; là chỗ dựa đáng tin cậy và là điểm tựa vững
chắc cho một dân tộc trong quá trình vận động lịch sử ở hiện tại cũng như tương
lai.
Các giá trị văn hóa truyền thống của Việt Nam được
thử thách qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, nó được hun đúc trong suốt quá
trình đấu tranh dựng nước và giữ nước. Vượt qua những diễn biến phức tạp của
chiều dài lịch sử, các giá trị văn hóa truyền thống đã khẳng định sức sống mãnh
liệt của mình và chúng được sử dụng như là vũ khí sắc bén, tạo ra một sức mạnh
vô cùng to lớn, đóng góp vào lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Lịch
sử cho thấy, qua những lần giao lưu, tiếp biến, hội nhập với các nền văn hóa trên
thế giới qua những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc, các giá trị
văn hóa truyền thống Việt Nam không chỉ được bảo tồn mà còn phát triển phong
phú hơn. Nó đã ăn sâu vào máu thịt con người Việt Nam, tạo nên một sức mạnh phi
thường, có khả năng "đề kháng" và đấu tranh mạnh mẽ chống lại mọi kẻ
thù xâm lược qua nhiều thế kỷ. Các giá trị đó chính là lòng yêu nước nồng nàn,
ý chí tự lực tự cường, tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, khoan dung, trọng
nghĩa tình, hiếu học, cần cù, lạc quan...
Đối với Thái Bình, là tỉnh nằm ở khu vực châu thổ đồng bằng Bắc Bộ với khí hậu gió mùa, mật độ sông
ngòi dày đặc, lượng mưa lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp
nhưng bão lụt cũng xảy ra thường xuyên, cho nên cư dân Thái Bình luôn phải lo
việc đắp đê, giữ đê và chống lụt. Hoạt động đắp đê, chống lũ lụt đòi hỏi sự tập
trung nhân lực lớn, vượt phạm vi của một làng, mở rộng ra các vùng trong tỉnh.
Sự cố kết cộng đồng phát triển từ cấp độ gia đình, làng xã và mở rộng ra hơn nữa.
Chính mối quan tâm thường trực hàng ngàn năm chống lụt để bảo vệ đồng ruộng,
xóm làng đã tạo nên tinh thần yêu quê hương, đất nước đặc biệt của người dân
Thái Bình qua nhiều thế hệ. Những giá trị đó tạo nên sức mạnh tinh thần giúp
người Thái Bình vượt qua nhiều khó khăn trong xây dựng, bảo vệ quê hương và
đóng góp cho đất nước, để lại những dấu ấn trong lịch sử dân tộc.
Quá trình xây dựng và phát triển của mảnh đất, và con người
Thái Bình đã tạo lập, hình thành nên những giá trị truyền thống, trở thành nét
tiêu biểu trong văn hóa, con người Thái Bình đó là: Tinh thần yêu nước, cách mạng, đoàn kết, khoan dung; ý chí kiên cường bất
khuất; cần cù, sáng tạo, hiếu học.
Trước hết là truyền thống yêu nước, cách mạng, ý chí kiên cường, bất khuất
chống giặc ngoại xâm; tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng. Đây là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt lịch sử hình thành và phát triển của quê hương Thái Bình. Mỗi con
người từ những cộng đồng khác di cư đến đây, uống nước ở dòng sông này, ăn những
hạt cơm được trồng cấy trên mảnh đất này, trở thành thành viên của vùng đất chứa
chan tình người, rộng lòng đón nhận nhiều cảnh đời, nhiều số phận đến vùng đất
mới lập nghiệp với mong ước về cuộc sống thái bình. Những con người đó và các
thế hệ tiếp theo đã đồng cam cộng khổ, đoàn kết, gắn bó với nhau đắp đê trị thủy,
đào sông khơi ngòi, thau chua rửa mặn, thoát úng... Hơn ai hết, họ thấu hiểu sự
quý giá của từng tấc đất mà các bậc tiền nhân - những người đã biến đầm lầy,
vùng hoang vu thành cánh đồng thẳng cánh cò bay.
Điều đó đã hun đúc nên tình yêu quê hương tha thiết, ý chí quyết tâm, tinh
thần đoàn kết đứng lên bảo vệ quê hương, đất nước mỗi khi có một thế lực bên
ngoài đến xâm lược và trở thành truyền thống bất khuất, kiên cường, yêu nước,
chống giặc ngoại xâm của người Thái Bình. Trong thời kỳ Bắc thuộc và chống Bắc
thuộc, nhiều người con Thái Bình đã nô nức đầu quân dưới trướng của Bát Nạn tướng
quân đánh giặc Hán. Đến thế kỷ VI, Thái Bình là một trong những căn cứ của cuộc
khởi nghĩa Lý Bí. Nhà Trần khởi nghiệp trên đất Thái Bình, mảnh đất này trở
thành địa bàn chiến lược quan trọng trong cuộc kháng chiến chống quân Mông -
Nguyên; những địa danh A Sào, Hải Thị, Lộng Khê, Đào Động... đã đi vào lịch sử
oai hùng của dân tộc.
Truyền thống kiên cường, bất khuất đó một lần nữa được tôi luyện trong cuộc
đấu tranh chống thực dân Pháp thế kỷ XIX và các cuộc kháng chiến chống thực
dân, đế quốc sau này. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngay từ những năm 30 của thế kỷ
XX, phong trào đấu tranh cách mạng đã bùng lên mạnh mẽ với các cuộc biểu tình của
nông dân Tiên Hưng, Duyên Hà, Tiền Hải, gây tiếng vang lớn. Nhiều người con của
quê hương Thái Bình đã ghi những dấu ấn trong lịch sử dân tộc bằng tinh thần
yêu nước, quả cảm, sẵn sàng xả thân hy sinh cho Tổ quốc. Cũng với tinh thần yêu
nước đó, những người ở hậu phương miệt mài lao động sản xuất làm nên “Quê hương
năm tấn” trong khói lửa chiến tranh, làm nên danh hiệu Thái Bình “Thóc không
thiếu một cân, quân không thiếu một người” nức lòng cả nước, động viên tinh thần
chiến đấu, sản xuất của nhân dân cả nước trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Thứ hai, là đức tính cần cù, chịu thương chịu khó, sáng tạo trong lao động.
Xưa kia con người di cư về vùng đất mới đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Họ
dám bỏ làng xóm cũ vốn gắn bó từ lâu đời, vượt ra khỏi quan niệm nhỏ hẹp về quê
cha đất tổ, về nơi chôn nhau cắt rốn, nơi chôn cất mồ mả tổ tiên. Đến nơi đất mới
ven biển, họ phải quật thổ bồi cơ, khai phá đất hoang, đào sông khơi ngòi, đắp
đê, chống bão lụt..., biết bao việc phải làm để giành sự sống. Quá trình vật lộn
với thiên nhiên ấy càng làm cho đức tính cần cù, chịu thương chịu khó được tôi
luyện thêm và truyền từ đời này sang đời khác. Ở bất cứ hoàn cảnh nào, người
Thái Bình luôn hăng say lao động sản xuất. Bằng sức lao động cần cù, bền bỉ và
sáng tạo, người dân Thái Bình đã biến miền đất hoang dã ngập mặn thành phì
nhiêu màu mỡ, tạo điều kiện tích cực cho nghề trồng lúa, mở rộng địa bàn cư
trú, thuần dưỡng đất đai canh tác, phát triển ngành nghề, sáng tạo ra nhiều giá
trị văn hóa, đóng góp vào kho tàng chung của di sản văn hóa dân tộc.
Thứ ba, là truyền thống hiếu học. Là mảnh đất cách xa kinh thành Thăng Long
nhưng Thái Bình đã đóng góp cho lịch sử khoa bảng đất nước số lượng các vị đại
khoa khá lớn. Theo số liệu thống kê, Thái Bình có hơn 120 vị đại khoa, trong đó
có 2 trạng nguyên, 2 bảng nhãn, 3 thám hoa, 26 hoàng giáp, 76 tiến sĩ và phó bảng.
Nhiều vị quan người Thái Bình tài cao đức rộng được các triều đình phong kiến
tin cậy, giao phó những trọng trách quan trọng như làm chánh sứ, giám khảo các
khoa thi. Mảnh đất Thái Bình đã đóng góp cho đất nước nhiều danh nhân trên các
lĩnh vực: nhà bác học Lê Quý Đôn, Phạm Đôn Lễ, Ngô Quang Bích, Quách Đình Bảo...
Ngoài những giá trị tiêu biểu trên, trong văn hóa truyền thống của Thái
Bình còn có những truyền thống đó là các giá trị văn hóa, văn hiến đặc sắc, là
nơi văn minh nông nghiệp, văn hóa lúa nước phát triển mạnh mẽ với nhiều di sản
vật thể và phi vật thể, như các lễ hội, trò chơi diễn xướng dân gian; kho tàng
ca dao tục ngữ; các loại hình nghệ thuật (chèo, múa rối) và các công trình kiến
trúc tiêu biểu, kho tàng hán nôm…tạo nên một vùng văn hóa giầu bản sắc, sản
sinh nhiều nhân tài, đóng góp quan trọng vào quá trình dựng nước và giữ nước.
Những giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hóa, con
người Thái Bình trong lịch sử chỉ được phát huy trong điều kiện hiện nay, đặc
biệt là nó không chỉ dừng lại ở trạng thái lý tưởng mà phải thẩm thấu vào trong
lối sống của từng cá nhân, cộng đồng, chuyển hóa thành các hành vi trong các hoạt
động và quan hệ ứng xử giữa con người với con người và giữa con người với tự
nhiên. Chỉ khi có một môi trường xã hội từ gia đình, nhà trường và cộng đồng xã
hội lành mạnh, mỗi cá nhân được nuôi dưỡng và định hướng cho lý tưởng sống bằng
những giá trị văn hóa của dân tộc, cùng với những chính sách đồng bộ, thì các
giá trị đó mới được phát huy đầy đủ, mạnh mẽ và sẽ trở thành nguồn lực nội sinh
để phát triển. Trách nhiệm đó đang đặt lên vai những cán bộ lãnh đạo, quản lý
trong hệ thống chính trị các cấp của tỉnh. Với tinh thần năng động, sáng tạo và
khát vọng cống hiến cho quê hương, đất nước của những người con Thái Bình ở quê
hương cũng như trên khắp mọi miền Tổ quốc và cả ở nước ngoài, chúng ta có quyền
hy vọng về một tương lai tươi sáng cho sự phát triển bền vững của quê hương, của
từng cá nhân, từng gia đình để thực sự cuộc sống trên mảnh đất này luôn thái
bình theo đúng nghĩa của nó.
2. Xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con
người, đáp ứng yêu cầu
phát triển Thái Bình nhanh, bền vững
2.1. Nhận thức về tiềm
năng, thế mạnh các giá trị văn hóa, con người, mục tiêu của Đảng bộ tỉnh Thái
Bình trong xây
dựng và phát huy sức mạnh giá trị văn hóa, con người
Thái Bình là tỉnh giàu truyền thống văn hóa, văn hiến,
yêu nước và cách mạng. Trong quá trình lãnh đạo phong trào cách mạng địa
phương, Đảng bộ tỉnh Thái Bình luôn quán triệt và nhận thức sâu sắc các quan điểm
chỉ đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển văn hóa, con người. Trong
quá trình cùng đất nước đổi mới, thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước về phát triển văn hóa, con người nhất là từ khi thực hiện
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, Đảng bộ tỉnh Thái Bình đã có nhiều chủ trương và cơ chế,
chính sách về phát triển các giá trị văn hóa, sức mạnh con người. Qua các kì Đại hội, phát triển văn hóa, con người luôn
là nội dung quan trọng, là một thành tố trong chủ đề các Đại hội Đảng bộ, nhất
là từ Đại hội XVII đến nay, lĩnh vực văn hóa, con người luôn được Đảng bộ xác định
là một trong những nhiệm vụ trọng tâm để phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
trong các nhiệm kì.
Quán triệt các quan điểm chỉ đạo, định
hướng chiến lược của Đảng, nhà nước về phát triển văn hóa, con người, năm 2019 Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIX đã
ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TU về tăng cường giáo dục, phát huy truyền thống
văn hóa, văn hiến, yêu nước và cách mạng của quê hương Thái Bình cho cán bộ, đảng
viên và các tầng lớp Nhân dân. Theo đó Nghị quyết đã nêu quan điểm chỉ đạo, trong đó chỉ rõ: “Truyền thống văn hóa, văn hiến, yêu nước, cách mạng là nguồn lực tinh thần,
sức mạnh nội sinh trong các địa phương, ban, ngành, cơ quan, đơn vị, trong cán
bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân để thực hiện thắng lợi toàn diện và bền
vững các nhiệm vụ chính trị của tỉnh… Giáo
dục truyền thống văn hóa, văn hiến, yêu nước, cách mạng là chăm lo xây dựng con
người phát triển toàn diện, phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của
mỗi cá nhân; nuôi dưỡng và nhân lên tình yêu gia đình, quê hương, đất nước, sống
tốt, sống có trách nhiệm và làm việc hiệu quả; là nhiệm vụ quan trọng, thường
xuyên, liên tục, lâu dài; là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và của toàn
dân đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện của cấp ủy, tổ chức đảng. Bên cạnh
đó Nghị quyết cũng xác định mục tiêu tổng quát và 12 nhóm chỉ tiêu trong giai
đoạn 2020-2030, trong đó phấn đấu đến năm 2030 xây dựng được “thương hiệu” không
gian văn hóa vùng đất, con người Thái Bình.
Quán triệt những định
hướng chiến lược, nhiệm vụ trọng tâm trong Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội
XIII của Đảng, trên cơ sở sơ kết 05 năm thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9/6/2014, Hội
nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; đồng
thời trên cơ sở kế thừa những chủ trương, định hướng về phát triển văn hóa, con
người Thái Bình trong Văn kiện các kì Đại hội Đảng bộ tỉnh trước đây, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần thứ XX, nhiệm kỳ
2020 - 2025 xác định: "Chú trọng phát triển văn hóa - xã hội, nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân; phấn đấu xây dựng Thái Bình đến năm 2025
trở thành tỉnh phát triển khá, đến năm 2030 theo kịp nhóm dẫn đầu và đến năm
2045 là tỉnh phát triển trong khu vực đồng bằng sông Hồng"; đồng thời, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX chỉ rõ nhiệm vụ xây dựng phát huy giá trị văn hóa, con người Thái Bình, coi đây là một trong 3 khâu đột phá để phát triển kinh tế-xã
hội của tỉnh : "Xây dựng con người Thái Bình phát triển toàn diện cả về đạo
đức, nhân cách, trí tuệ, thể chất và năng lực. Tích cực đổi mới công tác đào tạo
nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế - xã hội. Phát huy truyền thống văn hoá, yêu nước, cách mạng của quê hương
Thái Bình; xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh. Nâng cao chất lượng chăm sóc
sức khoẻ Nhân dân. Thực hiện tốt chính sách xã hội và bảo đảm an sinh xã hội.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân. Chăm lo nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân."
Để cụ thể hóa những chủ trương, định hướng chiến lược về phát triển văn
hóa, con người trong các nghị quyết của Trung ương và của Đảng bộ tỉnh, Ủy ban
nhân dân tỉnh đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách nhằm đẩy mạnh, phát huy các
giá trị văn hóa, con người Thái Bình, như: ban hành phê duyệt và triển khai thực
hiện các Đề án về “Xây dựng con người phát triển toàn diện về trí tuệ, tư tưởng, đạo đức
và thể chất; đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giai đoạn
2015- 2020, tầm nhìn 2030 tỉnh Thái Bình; Quy hoạch hệ thống thiết chế văn hóa,
thể thao cơ sở tỉnh Thái Bình đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; ban hành Quy định về thực hiện nếp sống
văn hoá trên địa bàn tỉnh Thái Bình và phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa”, gắn với việc phát huy tính tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng
viên trong thực hiện nếp sống văn hoá trên địa bàn tỉnh...
Như vậy nhận thức về nhiệm vụ, vị trí vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của phát triển
văn hóa, con người đã được Đảng bộ tỉnh Thái Bình quán triệt sâu sắc, xuyên suốt
qua các thời kì, với những chủ trương, định hướng lớn được thể hiện trong các
văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh, cũng như nghị quyết chuyên đề của Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh; đồng thời được cụ thể hóa bằng các cơ chế, chính sách, nhằm phát
huy, khai thác tiềm năng, thế mạnh của các giá trị văn hóa, sức mạnh con người
Thái Bình trong quá trình xây dựng và phát triển.
Thực hiện những chủ trương, định hướng
chiến lược, cũng như những nhiệm vụ, giải pháp đã được đề ra; đến nay, công tác xây dựng và phát huy các giá trị văn hóa, sức mạnh
con người, khơi dậy truyền thống văn hóa, văn hiến, yêu
nước và cách mạng của quê hương Thái Bình đã đạt được những kết quả quan trọng.
Nhận thức về vai trò của văn hoá được nâng cao. Truyền thống văn hoá, văn
hiến, yêu nước, cách mạng của quê hương Thái Bình được chú trọng phát huy; qua
đó khơi dậy lòng tự hào, động lực, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và
Nhân dân trong tỉnh. Cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể trong tỉnh
đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai và tổ chức thực hiện có hiệu quả công
tác văn hóa, con người; tăng cường tuyên truyền,
giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống văn hóa, văn
hiến, yêu nước, cách mạng của quê hương, đất nước cho cán bộ, đảng viên và các
tầng lớp Nhân dân. Việc chăm lo giáo dục, xây dựng con người phát triển
toàn diện, trọng tâm là bồi đắp tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, xây dựng
đạo đức, lối sống và nhân cách tốt cho học sinh, sinh viên, gắn xây dựng, rèn
luyện đạo đức với thực hiện quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quan
tâm. Công tác giữ gìn, bảo tồn, bổ sung,
phát triển các giá trị văn hóa truyền thống của tỉnh trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế được chú trọng. Công tác giáo
dục pháp luật, đạo đức, lối sống xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá,
nuôi con khoẻ, dạy con ngoan, xây dựng gia đình học tập, dòng họ học tập, cộng
đồng học tập, phát huy tinh thần tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách…đã
góp phần quan trọng trong việc khơi dậy những giá trị văn hoá, văn hiến, truyền
thống yêu nước, cách mạng, tinh thần đoàn kết vượt qua khó khăn, thử thách, hỗ
trợ giúp nhau vươn lên trong cuộc sống của cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội
viên và Nhân dân trong tỉnh. Những nét đẹp truyền thống về thuần phong, mỹ tục
của các làng quê, dòng họ được phát huy, những hủ tục lạc hậu từng bước được đẩy
lùi. Đạo đức, nhân cách và lối sống của đại bộ phận nhân dân có đã có những tiến
bộ nhất định, sống biết chia sẻ, nhân ái vì cộng đồng, không thờ ơ, vô cảm trước
những hoàn cảnh khó khăn, những cảnh đời bất hạnh.
Việc xây dựng, trùng tu, tôn tạo, bảo
vệ, khai thác và phát huy các di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn được quan
tâm. Công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá đã có chuyển biến tích cực;
nhận thức của các cấp uỷ Đảng, chính quyền và nhân dân về giá trị của di sản
văn hoá được nâng lên; công tác bảo vệ và phát huy các di sản văn hoá đã được
triển khai, thực hiện từ tỉnh tới cơ sở, tạo được sự đồng thuận trong nhân dân
và huy động được nhiều nguồn lực trong xã hội tham gia.
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”
được phát động và thực hiện hiệu quả ở nhiều địa phương, cơ quan, đơn vị; các
phong trào thi đua yêu nước được triển khai sâu rộng, thiết thực đã góp phần vào sự nghiệp phát triển văn hóa, xây dựng đạo
đức, nhân cách, lối sống tốt đẹp của con người;
bồi dưỡng lòng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần đoàn kết, năng
động, sáng tạo và ý chí quyết tâm vượt qua khó khăn, thử thách của nhân dân
trong tỉnh. Qua đó đã góp phần tích cực vào việc xây dựng lối sống con người Thái Bình, xây dựng nếp sống văn hóa cá
nhân, gia đình và xã hội. Nhiều truyền thống tốt đẹp đã được gìn giữ, phát huy;
tình cảm cộng đồng gia đình - làng - nước ngày một thêm gắn bó.
Các hoạt động tuyên truyền, quảng bá những truyền thống tốt đẹp của đất và người
Thái Bình tới các vùng miền trong cả nước và cộng đồng quốc tế được quan tâm,
đã cổ vũ, động viên cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân người Thái Bình ở
trong và ngoài nước hướng về cội nguồn, đồng lòng, chung sức thực hiện thắng lợi
các nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an
ninh, xây dựng tỉnh Thái Bình ngày càng văn minh, giàu đẹp và phát triển.
Nhìn chung, sau
hơn 35 năm đổi mới, Thái Bình đã đạt được những thành tựu quan trọng và khá
toàn diện trên các lĩnh vực. Tuy nhiện, so với tiềm năng, thế mạnh của địa
phương, nhất là tiềm năng thế mạnh về văn hóa, con người thì những thành tựu đó
chưa xứng tầm.
Về kinh tế: Phát triển chưa vững chắc, thiếu bền vững, quy mô nhỏ, sức cạnh tranh thấp; chất lượng tăng trưởng
chưa cao. Việc thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế và các ngành sản xuất còn chậm,
chưa đạt yêu cầu; tăng trưởng vẫn chủ yếu dựa vào yếu tố vốn và theo chiều
rộng, hiệu quả đầu tư chưa cao. Thu nhập bình quân đầu người còn thấp so với
khu vực và cả nước.
Về văn xã hội: Còn nhiều vấn đề xã hội bức xúc khác cần được tiếp tục quan tâm giải quyết.
An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội còn tiềm ẩn một số yếu tố bất ổn. Công tác đào tạo,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao còn hạn
chế. Hoạt động khoa học, công nghệ chưa tạo được sự đột phá trong phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh. Tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã
hội có chiều hướng gia tăng. Môi trường văn hóa còn tồn tại tình trạng thiếu
lành mạnh, ngoại lai; một
bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thiếu
tinh thần đoàn kết, thiếu ý thức chấp hành pháp
luật, sống thực dụng, thiếu lý tưởng, trái với thuần phong mỹ tục, xa rời truyền thống văn hóa tốt đẹp của
quê hương, đất nước.
Về văn hóa:
Xét trên tổng thể bình diện chung, so với những thành tựu trên lĩnh vực chính
trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành tựu trong lĩnh vực văn hóa
chưa tương xứng; chưa đủ để tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường
văn hóa lành mạnh. Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa hiệu quả
chưa cao, nguy cơ mai một chưa được ngăn chặn. Hệ thống thông tin đại chúng
phát triển thiếu quy hoạch khoa học, gây lãng phí nguồn lực và quản lý không
theo kịp sự phát triển. Công tác giáo dục,
phát huy truyền thống văn hóa, văn hiến, yêu nước, cách mạng của quê hương Thái
Bình ở một số địa phương, cơ quan, đơn vị chưa được chú trọng. Nội dung, phương thức giáo dục truyền thống chậm đổi mới. Việc
tuyên truyền, quảng bá về những truyền thống quý báu của tỉnh và các loại hình
di sản văn hóa phi vật thể, các di tích lịch sử văn hóa; việc bảo tồn, khai thác, phát huy giá trị các chứng
tích cổ, những hương ước, quy ước thôn, làng xưa, các thuần phong, mỹ tục…
hiệu quả chưa cao.
Cơ chế, chính sách về kinh tế trong văn hóa,
văn hóa trong kinh tế, về huy động, quản lý các nguồn lực cho văn hóa chưa cụ
thể, rõ ràng. Hệ thống thiết chế văn hóa và cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động
văn hóa còn thiếu và yếu, có nơi xuống cấp, thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng thấp.
Những tồn tại, hạn chế trên xuất
phát từ nhiều nguyên nhân, song chủ yếu là nguyên nhân chủ quan như: nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền chưa thật đầy đủ, sâu sắc về vị trí, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc phát
huy các giá trị văn hóa, con người; chưa coi đây là một trong những tiềm năng,
thế mạnh quan trọng và là sức mạnh nội sinh, sức mạnh mềm để phát triển kinh tế
- xã hội của địa phương, cơ quan, đơn vị. Vì vậy chưa quan tâm thường xuyên đầy
đủ lĩnh vực này. Việc cụ thể hóa, thể chế hóa Nghị quyết của Đảng còn chậm, thiếu
đồng bộ và trong một số trường hợp thiếu khả thi. Công tác quản lý nhà nước
về văn hóa chậm được đổi mới, có lúc, có nơi bị xem nhẹ, thậm chí buông lỏng; kỷ
luật, kỷ cương không nghiêm. Đầu tư cho lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng và còn
dàn trải. Chưa nắm bắt kịp thời những vấn đề mới về văn hóa để đầu tư đúng hướng
và có hiệu quả. Chưa quan tâm đúng mức công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn
nhân lực hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý các cấp...
2.2. Bối cảnh tình
hình, sự cần thiết phải xây dựng và phát huy sức mạnh giá trị văn hóa, con
người Thái Bình trong giai đoạn
hiện nay
Thế giới đang trải qua
một thời kỳ có nhiều biến động nhanh chóng, phức tạp và khó dự báo. Các nước lớn điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác,
thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh kiềm chế lẫn nhau quyết liệt, giành vị thế và lợi ích gây ra tình hình
phức tạp tại nhiều khu vực và nhiều nước. Xung đột dân tộc, tôn giáo,
khủng bố quốc tế, chiến tranh cục bộ, chiến tranh kinh tế, chiến tranh mạng,
các hoạt động can thiệp, lật đổ, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ, tài nguyên…
diễn ra dưới những hình thức mới, gay gắt hơn. Cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ tư cùng với quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đang diễn ra trên
mọi lĩnh vực, trong đó có toàn cầu hóa về văn hóa, mức độ tùy thuộc lẫn nhau
giữa các nước ngày một gia tăng, thu hút các quốc gia tham gia vào các hoạt
động do các tổ chức quốc tế và khu vực khởi xướng. Toàn cầu hóa tạo nhiều cơ
hội nhưng cũng không ít thách thức, đòi hỏi mỗi quốc gia phải tiên liệu những
vấn đề mới xuất hiện để tranh thủ cơ hội, hóa giải thách thức, tích cực, chủ
động tham gia hội nhập quốc tế. Đây là xu hướng có tính tất yếu khách quan nhằm
tranh thủ tối đa sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại cho lợi
ích và sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Từ chối hội nhập quốc tế đồng
nghĩa với cản trở phát triển dẫn đến sự tụt hậu của quốc gia trong sự phát
triển chung của nhân loại.
Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế dẫn
đến toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế về văn hóa, đòi hỏi cơ bản và cấp
thiết là vừa phải bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc vừa coi
trọng và bảo vệ sự đa dạng văn hóa trên phạm vi toàn thế giới. Việc xử lý
đúng đắn mối quan hệ giữa bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc với tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại; giữa phát triển văn hóa dân tộc và hội nhập quốc tế về
văn hóa sẽ làm phong phú cho văn hóa đất nước, thúc đẩy văn hóa dân tộc phát
triển. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế chúng ta có dịp tiếp xúc
rộng rãi với những thành tựu văn hóa nhân loại, đồng thời giới thiệu với nhân
dân các nước những giá trị tốt đẹp, độc đáo của văn hóa Việt Nam. Chúng ta có
điều kiện tiếp thu và vận dụng có hiệu quả các giá trị, tinh hoa và thành tựu mới
về văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới, các kinh nghiệm của quốc
tế trong quản lý văn hóa, xã hội để phát triển bền vững đất nước. Tuy nhiên,
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cũng đang đặt văn hóa dân tộc trước những
thách thức, những “nguy cơ bất ổn”. Đó là khuynh hướng phổ biến các môtíp văn
hóa chung toàn cầu. Khuynh hướng đó có thể sẽ dẫn đến sự “đồng nhất” các giá trị
văn hóa, san bằng, “đồng hóa” các nền văn hóa của các dân tộc nói chung, văn
hóa vùng, miền, địa phương trong một quốc gia nói riêng. Quá trình toàn cầu hóa
sẽ có nguy cơ đe dọa xoá bỏ sự khác biệt về văn hóa giữa các quốc gia dân tộc,
giữa các vùng, các địa phương, làm nghèo sự đa dạng của bức tranh văn hóa nhân
loại. Nguy cơ đồng nhất hóa các hệ thống giá trị và truyền thống dẫn đến việc tự
xoá bỏ ý thức dân tộc, bản sắc địa phương, đe dọa làm cạn kiệt khả năng sáng tạo
của các nền văn hóa - nhân tố được coi là hết sức quan trọng đối với sự tồn tại
lâu dài của các dân tộc và nhân loại. Tổng Giám đốc UNESCO đã cảnh báo: “Xu hướng
toàn cầu hóa có thể gây phương hại tới tính sáng tạo và đa văn hóa của thế giới,
tạo ra sự đồng nhất nghèo nàn về văn hóa”[3].
Cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư có tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn
hóa, con người. Kết nối Internet vạn vật, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, điện
toán đám mây,… giúp hình thành nền kinh
tế số, xã hội số và văn hóa số; mọi người được tiếp cận và khai thác lượng
thông tin đồ sộ của toàn nhân loại mang lại cơ hội cho phát triển nền kinh, văn
hóa - xã hội và con người. Các phương tiện truyền thông xã hội (Facebook,
Twitter, YouTube, Instagram, Tiktok,...) đã trở thành hiện tượng văn hóa mới,
diễn ra các hoạt động thông tin, văn hóa đa dạng và phong phú, chứa đựng nhiều
giá trị và cả phản giá trị, lan tỏa sức mạnh mềm văn hóa và hạn chế, phá hoại
sức mạnh mềm văn hóa quốc gia…Mặt khác, việc hình thành các phương tiện truyền
thông xã hội, các phương thức mới liên kết xã hội trong môi trường mạng đang
đặt ra những vấn đề mới trong công tác quản lý, phát triển văn hóa, thông tin; phát huy vai trò của các phương tiện
truyền thông truyền thống và các phương tiện truyền thông hiện đại trong tổ chức
các hoạt động văn hóa để thích ứng sự thay đổi nhanh chóng của khoa học, công
nghệ.
Tuy nhiên, cần nhận
thấy mặt trái của công nghệ, những thay đổi về cách thức giao tiếp, thông tin và văn
hóa trên Internet cũng đặt con người và văn hóa xã hội gặp nhiều nguy hiểm, bất
trắc, khó lường... Chúng ta sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức, nhất là
trong các lĩnh vực an ninh mạng, an ninh văn hóa, an ninh con người, an ninh
phi truyền thống, quyền sở hữu trí tuệ, tội phạm công nghệ cao, tội phạm xuyên
quốc gia... Các phương tiện truyền thông xã hội, mạng
viễn thông, internet tạo thuận lợi cho giao lưu, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại, đồng thời cũng là nơi diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt để bảo tồn bản sắc
văn hóa dân tộc, bảo vệ thể chế chính trị, an ninh quốc gia, an ninh văn hóa,
an ninh con người ... Mặt trái của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư còn có thể
gây ra sự bất bình đẳng về văn hóa, xã hội. Nó có thể phá vỡ thị trường lao
động truyền thống, có thể làm gia tăng mức chênh lệch về cơ hội tiếp cận công
nghệ và phúc lợi xã hội về văn hóa của các nhóm dân cư; nó có thể làm gia tăng sự xâm nhập của các hiện tượng phản văn
hóa, phi văn hóa, phi nhân tính không phù hợp với nền tảng tinh thần của chế độ
xã hội chủ nghĩa; âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, đòi hỏi cần gia
tăng sức đề kháng và sự chủ động ứng phó, kiểm soát tốt.
Bối cảnh tình tình trên đặt ra yêu cầu khách quan, sự cần
thiết phải không ngừng phát huy các giá trị văn hóa, sức mạnh con người, đưa đất
nước phát triển nhanh, bền vững. Quá trình phát triển của mỗi
quốc gia, mỗi địa phương bên cạnh việc phát huy sức mạnh
tổng hợp (về chính trị, kinh tế, tài nguyên thiên nhiên, con người, nguồn nhân
lực, khoa học, công nghệ, an ninh, quốc phòng, đối ngoại…) thì nguồn lực văn
hóa, con người đang được nhiều quốc gia coi là một “sức mạnh mềm” quan trọng để
phát triển nhanh, bền vững và nâng cao vị trí, vai trò trên trường quốc tế.
Đối với Thái Bình, là địa
phương giầu truyền thống văn hóa, văn hiến, yêu nước và cách mạng; thực tiễn qua các thời kỳ cách mạng, trong đấu tranh giành
độc lập dân tộc cũng như trong các cuộc kháng chiến và xây dựng bảo vệ Tổ quốc
hiện nay đã chứng minh các giá trị văn hóa, sức mạnh
con người Thái Bình luôn là hành
trang, động lực phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, là nguồn sức mạnh nội
sinh, động lực to lớn cho sự phát triển. Đến nay, sau hơn 35 năm đổi mới, xuất phát từ một tỉnh thuần nông, đến nay kinh tế - xã hội của tỉnh đã đạt được những thành tựu to lớn, về quy mô, tốc độ tăng
trưởng và cấu kinh tế đều có những chuyển biến tích cực. Tiềm năng con người, truyền thống văn hoá, văn hiến, yêu nước, cách mạng và các đặc tính tốt đẹp
của con người Thái Bình từng bước được quan tâm phát huy, nhất là khát vọng vươn lên và quyết tâm vượt khó là thế mạnh, nguồn lực to lớn cho sự
phát triển.
Tuy đã đạt được những thành tựu quan trọng, song so với tiềm năng, thế mạnh,
nhất là tiềm năng, thế mạnh về những giá trị truyền thống văn hóa, con người
Thái Bình thì những kết quả đó vẫn còn rất khiêm tốn. Đặc biệt, hiện nay trong
xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ; khi mà cuộc cách mạng khoa
học lần thứ tư đang tạo điều kiện, thời cơ, thuận lợi để các địa phương thu hẹp
khoảng cách lợi thế, tiềm năng về vốn, khoa học công nghệ, thì việc khơi dậy tiềm
năng, thế mạnh về văn hóa, con người, phát huy các giá trị văn hóa, con người
là một việc làm có vị trí, vai trò, ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển
của tỉnh. Vì vậy, để phát triển Thái Bình nhanh, bền vững, thì việc phát huy các giá trị văn hóa, sức mạnh con người
Thái Bình, làm cho các giá trị đó mãi là hành trang, là cội rễ, động lực và trở thành sức mạnh nội sinh của sự phát triển
là đòi hỏi khách quan, yêu cầu cấp thiết hiện nay.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA, CON NGƯỜI, GÓP PHẦN PHÁT
TRIỂN THÁI BÌNH NHANH, BỀN VỮNG
1. Nâng cao nhận thức của cấp ủy, chính quyền các cấp về vị trí, vai
trò của văn hóa, con người và xây dựng, phát huy các giá trị văn hóa, con người
- Cấp ủy, chính quyền, các tổ chức, cơ quan, đơn vị cần
quán triệt sâu sắc và nhận thức đầy đủ các quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước về văn hóa,
con người, cũng như việc phát huy các giá trị văn hóa, sức mạnh con người trong
giai đoạn hiện nay.
Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền
về vị trí, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của văn hóa, con người và phát huy
các giá trị văn hóa, con người trong phát triển bền vững; đặc biệt, phải khắc phục tư tưởng "duy kinh tế",
chỉ tập trung cho kinh tế mà xem nhẹ quan tâm đến văn hóa. Phải quán triệt
nghiêm túc quan điểm "văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính
trị, xã hội". Có như vậy mới
phát huy được tối đa nguồn lực văn hóa, con người, khơi dậy được khát vọng phát triển đất nước và quê
hương Thái Bình phồn vinh, hạnh phúc.
Phải coi phát huy nguồn lực văn hóa, con người là một nhiệm vụ cơ bản, trọng tâm, vừa lâu dài, vừa cấp bách của các cấp ủy đảng, chính quyền và cả hệ thống chính trị. Nhiệm vụ này phải được quán triệt sâu sắc trong toàn Đảng bộ, toàn dân,
toàn quân, để chuyển hóa thành sức mạnh tinh thần và sức mạnh vật chất của quê
hương trong sự nghiệp xây dựng và phát triển của tỉnh hiện nay. Bên cạnh đó
phải coi trọng công tác kiểm tra, giám sát, khen
thưởng, kịp thời xử lý các vi phạm về hoạt động quản lý văn hóa, nhất là việc thực
hiện các mục tiêu, nhiệm vụ về phát triển văn hóa, xây dựng con người.
- Tiếp tục đẩy
mạnh quán triệt triển khai thực hiện các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải
pháp Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về xây dựng phát triển văn
hóa, con người Việt Nam trong thời kì mới và Nghị quyết số 04- NQ/TU, ngày 30/01/2019
của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về “Tăng cường giáo dục, phát huy truyền thống
văn hóa, văn hiến, yêu nước, cách mạng của quê hương Thái Bình cho cán bộ, đảng
viên và các tầng lớp nhân dân”. Đồng thời, nghiêm túc quán triệt chỉ đạo của Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị văn hóa toàn quốc ngày 24/11/2021. Coi đây là
phương châm hành động xuyên suốt của toàn Đảng bộ, toàn quân, toàn dân đối với
sự nghiệp xây dựng phát triển văn hoá, con người, thể hiện quyết tâm, khát vọng
chấn hưng, phát triển văn hoá, con người Thái Bình.
- Phát huy năng
lực, trách nhiệm người đứng đầu trong việc phát triển văn hóa, xây dựng con
người; gắn các mục tiêu, nhiệm vụ phát
triển văn hóa và xây dựng con người với các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh
tế - xã hội của từng ngành, từng địa phương, đơn vị. Khơi dậy mạnh mẽ
hơn nữa tinh thần yêu quê hương, đất nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết,
khát vọng phát triển quê hương, đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy cao độ
những giá trị văn hóa, sức mạnh và tinh thần cống hiến của người Thái Bình, tạo
nguồn lực nội sinh và động lực đột phá để thực hiện thành công mục tiêu phát
triển Thái Bình đến năm 2025, 2030, tầm nhìn 2045 mà Đại hội XX của Đảng bộ đã
đề ra.
2. Phát huy các giá trị văn hóa, con
người, khơi dậy mạnh mẽ khát vọng phát triển Thái Bình phồn vinh, hạnh phúc
trong các tầng lớp Nhân dân
2.1. Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu quê hương, đất
nước của con người Thái Bình
Với vị trí trọng yếu, trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, cư dân trong các làng xã của Thái Bình đã sớm phải chống
chọi với các đạo quân xâm lược. Truyền thống yêu nước và cách mạng,
tinh thần thượng võ, quật khởi chống ngoại xâm và áp bức cường quyền đã thấm
sâu vào máu thịt, tâm can của các thế hệ cư dân nơi đây; ở bất cứ thời kì nào, đất và người
Thái Bình đều có những đóng góp to lớn, lập nên bao kỳ tích và để lại những dấu
ấn quan trọng vào quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Từ khi Đảng ra đời, dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình đấu tranh giành độc lập dân
tộc, trong các cuộc kháng chiến cũng như trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện
nay, tinh thần yêu nước, ý chí độc lập, tự chủ, tự cường của của con người Thái
Bình đã được phát huy cao độ, tạo nên sức mạnh to lớn, làm nổi bật tinh thần, ý
chí của đất và người Thái Bình. Đó chính là sức mạnh của lòng yêu nước được hun
đúc suốt hàng ngàn năm lịch sử; không chỉ được bồi đắp mà còn phát triển lên một
tầm cao mới. Yêu nước là lý tưởng thiêng liêng, lẽ sống cao đẹp,
là tình cảm chủ đạo và định hướng giá trị cho hành động và cách ứng xử đã trở thành giá trị văn hóa truyền
thống đặc trưng của người Thái Bình.
Để khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu quê hương, đất nước của
con người Thái Bình trong giai đoạn hiện nay, trong bối cảnh đất nước đang tiến hành đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập sâu rộng, quá trình toàn cầu hóa và dưới
tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư... Hơn bao giờ hết, lòng yêu
nước, tinh thần yêu nước của mỗi người gắn liền phải với
trách nhiệm và nghĩa vụ công dân, phấn đấu vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh".
Để phát huy tinh thần yêu nước của mỗi
cá nhân, mỗi tập thể, cấp ủy, chính quyền và các ban, ngành đoàn thể, cùng cả hệ
thống chính trị cần nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp
nhân dân về lòng yêu nước, về lý tưởng cách mạng và sự kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh
phải “giáo dục tinh thần yêu nước, tự
hào, tự tôn dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội
cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ”. Bên cạnh đó, cần cụ thể hóa thành các chính sách và các
phong trào thi đua yêu nước cụ thể, thiết thực. Lòng yêu nước, tinh thần yêu nước
phải trở thành động cơ để trước hết gắn kết mọi người dân Việt Nam nói chung,
con người Thái Bình nói riêng trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Ngày nay, yêu nước phải gắn với yêu chủ nghĩa xã hội, phải thể hiện ở lòng
tự hào, tự tôn dân tộc của người dân Việt Nam, dù có đi đâu, ở đâu, cũng luôn
có tình cảm gắn bó tha thiết với quê hương, đất nước và đều có tinh thần kiên
quyết, sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Giá trị đó không phai mờ, không hề mất đi cùng với thời gian và
không bị “hòa tan” trong quá trình hội nhập quốc tế. Do vậy, mỗi cấp ủy, tổ
chức đảng, cơ quan, đơn vị cần phải khơi đậy, không ngừng bồi dưỡng phẩm chất,
đạo đức, lối sống, niềm tin, ý chí quyết tâm, tình cảm, thôi thúc người dân
hành động tự giác, thực hiện mục tiêu, lý tưởng cách mạng; mỗi người dân cần thấm nhuần sâu sắc và chú trọng xây
dựng lòng yêu nước, đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách
nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất
nước, quê hương.
2.2. Khơi
dậy mạnh mẽ tinh thần đoàn kết gắn bó cộng đồng trong nhân dân
Đoàn kết dân tộc gắn bó cộng đồng là một trong những giá trị văn hóa đạo
đức Việt Nam, phản ánh bản chất, truyền thống tốt đẹp trong đánh giặc, giữ nước
của nhân dân ta, thể hiện thái độ, trách nhiệm của nhân dân trước vận mệnh của
đất nước. Lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng và giữ nước
của cha ông cho thấy lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc
lập tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết đã trở thành chiến lược quan trọng,
là sợi chỉ đỏ và là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng của Đảng, dân tộc ta;
đoàn kết là động lực và nguồn lực
phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý
chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển
đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Đối với Thái Bình, bằng sức mạnh của đoàn kết
người dân Thái Bình đã từng bước biến miền đất hoang dã ngập mặn thành phì
nhiêu màu mỡ, tạo lập một cuộc sống định cư trù mật, lâu dài. Cội rễ tự nhiên
đó đã tạo nên truyền thống đoàn kết của con người nơi đây.
Trong bối cảnh hiện nay, củng cố tăng cường
đoàn kết hiện nay không thể chung chung mà phải gắn chặt với việc bảo đảm và giải quyết hài
hòa quan hệ lợi ích giữa các tầng lớp, giai cấp và các thành phần trong xã hội,
trong đó đặc biệt chú trọng việc không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của Nhân dân, quan tâm chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp
của nhân dân, để không ai bị bỏ lại phía sau. .
Một trong những động lực thúc đẩy nhân
dân tăng cường đoàn kết trong tình hình hiện nay là quyền làm chủ đất nước của
nhân dân cần được tôn trọng. Do vậy, các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận,
đoàn thể cần chăm lo, phát huy và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; bảo đảm tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở,
phải thật sự tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có
trách nhiệm với dân; thực hiện có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Phát huy sức mạnh to lớn của
nhân dân, tạo thành phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tập trung xây dựng
đội ngũ cán bộ có phong cách “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách
nhiệm với nhân dân”, thường xuyên đối thoại, lắng nghe, tiếp thu, tập trung
giải quyết các khó khăn, vướng mắc, bức xúc, nguyện vọng chính đáng của người
dân; phát huy vai trò gương
mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu, cán bộ
công chức, viên chức, lực lượng vũ trang. Đẩy mạnh cải cách hành chính, lấy kết
quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để
đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên. Kiên quyết,
kiên trì đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí; phê phán, xử lý nghiêm minh những
cán bộ, công chức, viên chức thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm, quan liêu, hách
dịch, cửa quyền, nhũng nhiễu dân; tăng cường ý thức, tinh thần trách nhiệm phục
vụ nhân dân.
Trước yêu cầu đổi mới, cần tiếp tục phát
huy vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương
thức hoạt động, đa dạng hóa các hình thức vận động, tập hợp nhân dân thiết thực,
hiệu quả trong phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, giữ vững
ổn định chính trị và chủ động hội nhập quốc tế.
2.3. Phát huy nguồn lực con
người, đức tính cần cù, tinh thần vượt khó, kiên cường, bất khuất, mưu trí,
sáng tạo, ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển quê hương giầu mạnh
Là vùng đất mới hình thành nơi cửa biển
với bao khó khăn để có thể trụ vững được và xây dựng lên những xóm làng trù mật,
hơn ai hết, các cư dân Thái Bình trong lịch sử luôn mang trong mình tinh thần vượt khó, kiên cường, bất khuất, mưu
trí, sáng tạo, ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển quê hương. Những
bản chất tốt đẹp đó của con người Thái Bình đã được nuôi dưỡng, hun đúc trong
trường kì lịch sử, đặc biệt dưới sự lãnh của Đảng, những đức tính đó đã trở
thành những tố chất và là nguồn lực quan trọng để Thái Bình đạt được những
thành tựu to lớn, góp phần không nhỏ vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc, trong các cuộc kháng chiến và trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, với sự
phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, những đức tính tốt đẹp của con người
Thái Bình là tài sản vô giá để xây
dựng và phát triển nguồn
nhân lực của tỉnh.
Phát huy nguồn lực con người, khơi dậy
những tố chất tốt đẹp - truyền thống của người Thái Bình, để những tố chất đó
được bộc lộ và trở thành tài sản vô giá, là động lực, sức mạnh nội sinh cho sự
phát triển Thái Bình nhanh, bền vững là một trong những mục
tiêu, nhiệm vụ chiến lược của Đảng bộ Thái Bình. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ
XX đã xác định phát triển nguồn
nhân lực là một trong 3 khâu đột phá chiến lược đó là: "...Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; trọng tâm là phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội".
Tuy nhiên, để hoàn thanh mục tiêu, chiến
lược nâng cao chất lượng nguồn lực con người và phát huy nguồn lực ấy phải có
những cơ chế chính sách phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh từng nơi, từng lĩnh vực,
từng giai đoạn cụ thể. Trong bối cảnh hiện nay phải kết hợp hài hòa giữa tạo dựng
kế hoạch phục vụ công cuộc đổi mới đất nước mang tầm nhìn lâu dài gắn với xây dựng
cơ chế, chính sách cụ thể để khơi dậy tinh thần sáng tạo, dám nghĩ, dám làm,
dám chịu trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và mọi người dân. Đồng thời phải tạo
dựng được môi trường bình đẳng, thuận lợi để ai cũng sẵn sàng cống hiến tài
năng cho đất nước.
Bên cạnh đó, một trong những giải pháp
quan trọng để nâng cao được chất lượng nguồn nhân lực phải tích cực đổi mới công tác đào tạo nguồn nhân lực, nhất là
nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Do đó phải thực hiện hiệu quả việc đổi mới chương trình, nội dung,
phương pháp giáo dục ở các cấp học; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; phát huy tính sáng
tạo và ý thức tự chủ của cá nhân người học; nâng cao năng lực, chất lượng đào tạo nghề; đầu tư thích
đáng cho đào tạo nhân lực chất lượng cao. Xây dựng các cơ chế, chính sách thúc
đẩy phát triển các cơ sở giáo dục nghề nghiệp; đào tạo lại lực lượng lao động
đáp ứng yêu cầu chuyển đổi nghề nghiệp do quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
đổi mới công nghệ và tác động của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, xây dựng
nền kinh tế số, xã hội số.
2.4. Tiếp tục cụ thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp
luật của nhà nước thành những cơ chế, chính sách để các giá trị văn
hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, nguồn lực phát
triển Thái Bình nhanh, bền vững
Trước yêu cầu của
cuộc sống, của sự nghiệp phát triển quê hương, đất nước phồn vinh, hạnh phúc,
văn hóa cần phải chuyển động mạnh mẽ để hoàn thành sứ mệnh “soi đường cho quốc
dân đi”, góp phần quan trọng đưa đất nước ta phát triển nhanh và bền vững và một
trong những giải pháp quan trọng là phải cụ thể chế hóa chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước đối với việc phát huy giá trị
văn hóa, sức mạnh con người Thái Bình, khơi dậy khát vọng phát triển quê hương
Thái Bình phồn vinh, hạnh phúc thành những quy định, chủ trương, cơ chế cụ thể của
tỉnh để tổ chức triển khai trong thực tiễn.
- Các ban, ngành và địa phương cần xây dựng chương
trình, kế hoạch hành động cụ thể để khơi dậy khát vọng phát triển; phát huy giá
trị văn hóa và sức mạnh con người ở cơ quan, đơn vị, xây dựng các chỉ tiêu,
tiêu chí phấn đấu cụ thể để thực hiện. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể các cấp
cần tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, gắn với khơi dậy khát vọng
của các tầng lớp nhân dân. Trong việc cụ thể hóa chủ trương,
đường lối, chính sách về văn hóa, con người vừa phải có cái riêng, đồng thời
phải gắn trong tổng thể các chính sách về kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh,
đối ngoại, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị với tư cách văn hóa là nền tảng,
đồng thời là mục tiêu của các lĩnh vực này; phải phù hợp với định hướng xã hội
chủ nghĩa, phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, bảo đảm con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát
triển toàn diện. Bên cạnh đó, phải tập trung nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính
sách cho những lĩnh vực mới như phát triển công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn
hóa; tiếp thu, ứng dụng các thành tựu khoa học-công nghệ mới phục vụ cho phát
triển đất nước; ngăn chặn sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động;…
- Phát huy toàn
diện và đầy đủ các nguồn lực văn hóa, bao gồm nguồn nhân lực con người và nguồn
lực tài chính, nguồn vốn ngân sách nhà nước và nguồn vốn từ quá trình xã hội
hóa, sự đóng góp của cộng đồng các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân ở trong
và ngoài nước cùng tham gia phát triển văn hóa.
- Tăng cường quản lý nhà nước về bảo vệ và phát huy
giá trị truyền thống của các cơ quan chức năng và các địa phương, cơ sở; áp
dụng công nghệ hiện đại phục vụ công tác
bảo tồn và tra cứu di sản văn hóa. Quản lý, khai thác, sử dụng có hiệu quả giá
trị truyền thống của các lễ hội, di sản văn hóa, di tích lịch sử - văn hóa, các
thiết chế văn hóa trong giáo dục truyền thống, sinh hoạt văn hóa cộng đồng;
trong các hoạt động du lịch, quảng bá về Thái Bình. Thực hiện tốt việc phân cấp
quản lý, phát huy vai trò của các địa phương, cơ quan, đơn vị trong việc giáo
dục, bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa, văn hiến, yêu nước, cách mạng.
Kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của các hội chuyên ngành trong lĩnh
vực văn hóa, văn nghệ, giáo dục lịch sử, truyền thống; hình thành đội ngũ
chuyên gia nghiên cứu, giáo dục truyền thống văn hóa, văn hiến, yêu nước, cách
mạng của tỉnh.
-
Thường xuyên thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật và kịp thời xử lý các
hành vi vi phạm pháp luật trong các lĩnh vực liên quan đến lịch sử, văn hóa,
giáo dục truyền thống.
3. Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, xây dựng môi trường và đời sống
văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh, hội nhập, phát triển bền vững
3.1. Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa gắn với chuẩn mực cụ thể trong gia
đình, trường học, địa bàn dân cư, xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới,
việc tang, sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo
Môi trường văn hóa là “tổng hòa những thành tố vật chất và
tinh thần tương đối ổn định trong một thời gian và không gian cụ thể mà cá nhân
tiếp xúc và có tác động tới
hoạt động của chủ thể”. Như vậy, các thành tố cấu thành nên
“môi trường văn hóa” sẽ bao gồm: các sản phẩm và hoạt động văn hoá, các thiết chế văn hóa, những cảnh quan
văn hoá, ứng xử văn hoá, nếp sống văn hoá nơi công cộng, tại cơ
quan, tổ chức, gia đình, nhà trường... Nhìn chung, môi trường văn hóa là
một chỉnh thể thống nhất luôn vận động và biến đổi, trong đó các thành tố có mối
quan hệ biện chứng, vừa là nguyên nhân vừa là kết quả, bổ sung tương hỗ cho
nhau.
Trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030, Văn kiện Đại
hội XIII của Đảng xác định phải quan tâm đúng mức đến xây dựng môi trường văn
hóa lành mạnh, phù hợp với bối cảnh hội nhập quốc tế. Với sự đánh giá khách
quan, Đảng ta thẳng thắn chỉ rõ: “Văn
hóa chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế và chính trị, chưa
thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất
nước. Vai trò của văn hóa trong xây dựng con người chưa được xác định đúng tầm,
còn có chiều hướng coi trọng chức năng giải trí đơn thuần... Môi trường văn
hóa, xã hội tiếp tục bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực”,
có những mặt chưa thực sự lành mạnh, trái với thuần phong mỹ tục và truyền
thống văn hóa dân tộc. Từ những hạn chế, khuyết điểm đó, Đảng ta xác định: “Xây
dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy
truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất con người Việt Nam là
trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”. Đồng
thời, coi trọng phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, đời sống
văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh, tạo điều kiện thuận lợi để các
giá trị văn hóa, chuẩn mực con người không ngừng được bổ sung, phát triển, thực
sự là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho phát triển
kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế.
Để xây dựng môi trường văn hóa trong sạch, lành mạnh, Đảng ta xác định: “Có
cơ chế, chính sách, giải pháp để xây dựng môi trường văn hóa thật sự trong
sạch, lành mạnh, cải thiện điều kiện hưởng thụ văn hóa của nhân dân”; chú trọng
phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội tạo sức mạnh tổng hợp để xây
dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, thực sự là “định hướng giá trị” để phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người
Việt Nam. Qua đó khơi dậy mạnh mẽ khát vọng phát triển của dân tộc, tinh thần
yêu nước, tự hào, ý chí tự cường và lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng
thuận xã hội.
Như vậy, có thể thấy rằng, xây dựng môi trường văn hóa là một nhiệm vụ rất phức tạp,
khó khăn, lâu dài. Do đó, để thực hiện thành xây dựng môi trường văn hóa lành
mạnh, chúng ta phải tiến hành đồng bộ các giải pháp, đó là:
- Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện ban hành các bộ tiêu chí
đánh giá đối với các môi trường văn hóa khác nhau, góp phần chấn chỉnh nếp
sống, hành vi ứng xử trong các không gian văn hóa cụ thể, các cơ quan, đơn vị,
cộng đồng. Các cấp chính quyền nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung,
ban hành các quy định cụ thể về thực hiện các quy định về nếp sống văn hóa; các
hương ước, quy ước thôn làng, dòng họ phù hợp với truyền thống tốt đẹp của địa
phương.
- Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt
động của các thiết chế văn hóa, thể thao; đầu tư xây dựng và nâng
cấp các thiết chế văn hóa cơ sở, tạo điều kiện phục vụ nhu cầu thưởng thức văn
hóa, văn nghệ của nhân dân; tiếp tục thực hiện tốt Quyết định số 1997/QĐ-UBND
ngày 25/7/2017 phê duyệt Quy hoạch “Hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao và cơ
sở tỉnh Thái Bình đến năm 2020, định hướng đến 2030”; tăng cường xã hội hóa các
nguồn lực để đầu tư xây dựng, tu bổ các thiết chế văn hóa.
- Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp thực hiện các hoạt
động văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, góp phần
phát huy các giá trị truyền thống văn hóa tốt
đẹp của các địa phương; động viên đồng bào tôn giáo phát triển kinh tế, xây
dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư. Đồng thời, kịp thời phát hiện, đấu tranh
ngăn chặn, xử lý nghiêm những trường hợp mê tín dị đoan, vi phạm thuần phong,
mỹ tục, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, chuẩn mực đạo đức gia đình. Bên cạnh đó cần tích cực đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa”; Cuộc vận động xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, xây dựng nếp sống
văn hóa ứng xử nơi công cộng. Phải có những đánh giá, tổng kết, tiến tới đổi
mới mô hình, nội dung, cách thức xây dựng môi trường văn hóa cho phù hợp với sự
phát triển của thực tiễn.
- Phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng môi trường văn hóa. Gia đình là
môi trường đầu tiên, quan trọng nhất tạo dựng nhân cách con người. Vì vậy cần
xây dựng gia đình Việt Nam thực sự trở thành tổ ấm bình yên, nơi hình thành và
giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, hành vi ứng xử của con người.
- Nâng cao vai trò của nhà trường trong
xây dựng môi trường văn hóa. Mỗi trường học phải trở thành một không gian văn
hóa quan trọng góp phần giáo dục, rèn luyện con người về lý tưởng, phẩm
chất, lẽ sống. Thầy cô phải trở thành tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
- Tăng
cường vai trò chủ thể của cộng đồng trong xây dựng môi trường văn hóa. Khơi dậy
sức mạnh, phát huy sáng kiến của người dân, tránh áp đặt từ trên xuống, tránh
biến cộng đồng thành người quan sát hay khách bên lề trước công việc của chính
cộng đồng. Khuyến khích tinh thần tự quản, tự giác, tự chủ trong xây dựng môi
trường văn hóa. Mỗi tập thể, tổ chức, địa bàn dân cư phải là những môi trường
văn hóa lành mạnh, góp phần điều chỉnh hành vi các cá nhân theo đúng chuẩn mực.
Nâng cao vai trò phản biện xã hội, tạo dư luận lên án cái xấu, cái ác, ca ngợi
cái tốt, cái đúng, lấy gương người tốt, việc tử tế để cổ vũ, khuyến khích tính
hướng thiện của con người.
- Tăng cường
phối hợp liên ngành, huy động mọi nguồn lực để xây dựng môi trường văn hóa. Đẩy
mạnh xã hội hóa trong các hoạt động xây dựng thiết chế văn hóa, tôn tạo cảnh
quan văn hóa, cung ứng các sản phẩm và dịch vụ văn hóa, tổ chức các sự kiện,
hoạt động văn hóa…
3.2. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, doanh nhân và kinh doanh; chú
trọng phát huy vai trò, sức mạnh của văn hóa trong phát triển kinh tế - xã
hội.
Đất nước ta đang đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò của các doanh nghiệp với tư cách là trụ cột của
nền kinh tế ngày càng được đề cao. Để thực hiện mục tiêu xây dựng đất nước phồn
vinh, hạnh phúc mà Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đề ra, việc quan tâm đến doanh
nghiệp và nhất là văn hóa doanh nghiệp càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, doanh nhân và kinh
doanh có vị trí vai trò quan trọng, bởi lẽ nếu doanh nghiệp là xương sống của nền kinh tế, thì văn
hóa doanh nghiệp là linh hồn của doanh nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp chính là "trụ cột tinh thần"
làm nên cốt cách của doanh nghiệp, là chất keo gắn kết các thành viên hướng tới
những mục tiêu chung và cung cách hành
động chung. Để xây dựng văn
hóa doanh nghiệp, doanh nhân và kinh doanh cần thực
hiện tốt các nội dung sau:
- Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, tạo môi trường
kinh doanh lành mạnh. Hiện nay, đất nước ta đang tiến hành xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thị trường càng văn minh thì tính chất
nhân đạo của nó càng tăng và mục tiêu phục vụ con người càng có khả năng thực
hiện. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện; cơ chế, mô hình quản lý đang trên
con đường củng cố; còn rất nhiều bất cập, hạn chế và lúng túng…, đã tạo ra nhiều
kẽ hở về quản lý, về sở hữu và phân phối, khiến cho tình trạng tham nhũng, hối
lộ, tiêu cực có cơ hội phát triển, các quan hệ lợi ích nhóm, tập đoàn lan rộng,
tạo điều kiện cho những hành vi, biểu hiện suy thoái về đạo đức kinh doanh, văn
hóa kinh doanh. Do vậy, đẩy nhanh việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa để nền kinh tế vận hành theo đúng các quy luật của cung
cầu, cạnh tranh, lợi ích và giá trị là một yêu cầu cấp thiết.
- Nâng cao hiệu quả quản lý của các cơ quan nhà nước; đẩy
nhanh quá trình cải cách hành chính theo hướng dân chủ, trong sạch, chuyên nghiệp,
hiện đại, loại bỏ các rào cản gây phiền hà, nhũng nhiễu doanh nghiệp, chỉnh đốn
bộ máy hành chính sao cho doanh nghiệp và chính quyền "ngày càng thân thiện
hơn. Tập trung thực hiện
có hiệu quả các giải pháp để nâng cao vị trí xếp hạng Chỉ số năng lực cạnh
tranh cấp tỉnh (PCI), Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh
(PAPI), Chỉ số cải cách hành chính (PAR INDEX); triển khai thực hiện Bộ chỉ số
đánh giá năng lực cạnh tranh cấp huyện (DDCI). Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành
chính, nhất là thủ tục hành chính, đơn giản hoá thành phần hồ sơ và cắt giảm thời
gian giải quyết các thủ tục; thực hiện nghiêm quy định "5 tại chỗ" tại Trung tâm.
- Mở các khóa tập huấn, bồi dưỡng, hội thảo, tọa đàm về
văn hóa doanh nghiệp, văn hóa kinh doanh cho đội ngũ doanh nhân để nâng cao nhận
thức trong toàn xã hội. Khuyến khích tinh thần
khởi nghiệp đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh các sản
phẩm, bảo đảm phát triển bao trùm và bền vững; nâng cao vai trò, tính chuyên
nghiệp, năng lực và trách nhiệm, hiệu quả hoạt động của các hiệp hội doanh nghiệp
trong hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư cả trong nước và nước ngoài... Xây dựng chiến
lược đầu tư cho con người để phát huy tài năng và sức sáng tạo lao động của mỗi
cá nhân trong doanh nghiệp, qua đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Tăng cường công
tác thanh tra, kiểm tra giám sát hoạt động của các cơ quan công quyền với doanh nghiệp; ngăn chặn, hạn chế mặt
tiêu cực, nhất là phòng, chống mọi biểu hiện của quan hệ “lợi ích nhóm”, thao
túng chính sách, cạnh tranh không lành mạnh để trục lợi bất chính.
- Chú trọng phát huy vai trò, sức mạnh của văn hóa trong
phát triển kinh tế - xã hội; trong xây dựng các chính sách phát triển kinh
tế-xã hội phải gắn chặt với phát triển văn hóa, con người; lấy mục tiêu phát
triển văn hóa con người là thước đo hiệu quả của các chính sách. Đặc biệt phải
khơi dậy tinh thần yêu quê hương, đất nước,
đề cao ý chí tự cường và khát vọng phát triển Thái Bình phồn vinh, hạnh phúc. Trong
hoạt động tiêu dùng hàng hóa, phải tiếp tục thực hiện tốt cuộc vận động “Người
Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.
- Tập trung
phát triển ngành công nghiệp văn hóa và hoàn thiện thị trường các sản phẩm và dịch
vụ văn hóa. Đây là ngành kinh tế mới, hứa hẹn nhiều tiềm năng, đặc biệt là đối
với Thái Bình là địa phương giầu truyền thống văn hóa, văn hiến. Tuy nhiên, để
biến tiềm năng thành hiện thực, thành những nguồn lực, động lực để phát triển
thì đòi hỏi cần phải có sự thay đổi cả về tư duy và hành động. Cần lựa chọn để
đầu tư, hỗ trợ một số lĩnh vực công nghiệp văn hóa cũng như ban hành cơ chế chính
sách để thu hút các thành phần kinh tế tham gia phát triển công nghiệp văn hóa.
- Phát triển du lịch gắn với tuyên truyền quảng bá truyền thống văn hóa của
tỉnh. Trong đó phải nghiên cứu hình thành không gian văn hóa đặc thù của từng
địa phương, kết nối để hình thành không gian văn hóa mang đặc trưng bản sắc văn
hóa Thái Bình, góp phần tạo ra các sản phẩm du lịch, hình thành ngành công
nghiệp du lịch, gắn với phát triển ngành công nghiệp văn hóa của tỉnh.
3.3. Xây
dựng văn hóa trong lãnh đạo, quản lý; chú trọng xây
dựng môi trường văn hóa trong hệ thống chính trị
Muốn xây dựng văn
hóa trong chính trị, phải chú trọng xây dựng con người, hoàn thiện nhân cách
trong hoạt động chính trị, từ những công dân của nhà nước pháp quyền đến
cán bộ lãnh đạo, quản lý giữ chức vụ, được giao trọng trách ở các cấp, các
ngành, cơ quan, đơn vị.
- Cần nâng cao nhận thức về văn hóa và xây dựng văn hóa trong chính trị
cho đội ngũ cán bộ đảng viên, công chức, nhất là cho cán bộ lãnh đạo, quản
lý trong đó cần chú trọng vai trò của giáo dục chính trị, tư tưởng; phải
thấm nhuần các quan điểm của Đảng về xây dựng văn hóa theo các đặc trưng Dân
tộc - Nhân văn - Dân chủ và Khoa học, xây dựng con người để phát triển văn hóa
và phát triển văn hóa để hoàn thiện nhân cách. Nêu cao vai trò tiền
phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên; tiếp tục thực hiện tốt Quy định số
19-QĐ/TU, ngày 01/4/2019 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa XIX) về “Trách
nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy,
Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có năng lực,
có phẩm chất đạo đức, tận tụy, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân; thực hiện Quy chế văn hóa công sở, nội
quy, quy chế của các cơ quan, đơn vị, phát huy tinh thần, trách nhiệm trong
công việc; tích cực tham gia đấu tranh chống các quan điểm sai trái thù địch và các biểu
hiện tham nhũng, tiêu cực, lãng phí…
- Xây dựng văn hóa trong chính trị nổi bật một nội dung quan trọng là thái độ, chuẩn
mực đạo đức văn hóa trong ứng xử với người dân, chuẩn mực pháp luật trong thi
hành bổn phận, nghĩa vụ, chức trách của các quan chức và công chức, viên chức
trong Đảng, trong Nhà nước và trong các tổ chức chính trị - xã hội. Đó là văn
hóa trọng dân và văn hóa trọng pháp. Đây là vấn đề
thiết thực nhất, là thực hành dân chủ, thực hành dân vận, thực hành đạo đức với
ý nghĩa là thực hành văn hóa trong chính trị. Phải chú trọng tiếng nói của
người dân, làm cho người dân tham gia vào xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, Mặt
trận và đoàn thể, trong đó có sự đánh giá chính sách, đánh giá cán bộ, đánh giá
tác dụng, hiệu quả của thể chế, của chính sách với những phát hiện, đề xuất,
khuyến nghị cụ thể từ phía người dân.
- Xây dựng môi
trường văn hóa trong chính trị đòi hỏi phải tăng cường các đối thoại, chất vấn,
góp ý phê bình giữa các nhà lãnh đạo, quản lý với nhân dân. Diễn đàn này là nơi
đo lường cả năng lực, phẩm chất lẫn trách nhiệm của người lãnh đạo và quản lý
với nhân dân. Đó cũng là môi trường thử thách dân chủ, đo lường trình độ dân
chủ của đội ngũ cán bộ và người dân đồng thời đào thải những gì không xứng đáng
với văn hóa dân chủ mà cốt lõi của nó là văn hóa pháp luật và văn hóa đạo đức
trong đời sống chính trị - xã hội.
Phải kết hợp cả sức mạnh của dư luận xã hội với sức mạnh của phê phán, xử lý,
trừng phạt bằng hệ thống chế tài nghiêm ngặt; dùng dư luận để tạo sức ép
để người vi phạm tự nguyện từ chức; đề cao liêm sỉ, nhân phẩm, danh dự, trách
nhiệm đối với người giữ chức quyền.
- Đổi mới căn bản và đồng bộ cả thể chế, chính sách và cơ chế liên quan
trực tiếp tới việc đánh giá, bố trí cán bộ, sử dụng và đãi ngộ cán bộ. Xây
dựng văn hóa trong chính trị cần
phải làm cho văn hóa tác động sâu sắc nhất, tạo ra chuyển biến có tính đột phá
rõ rệt nhất ở lĩnh vực tổ chức cán bộ, qua việc đổi mới thể chế, chính sách, cơ
chế đối với cán bộ. Việc
quy hoạch, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển, đánh giá, xếp loại cán bộ, đảng
viên, công chức, viên chức phải được thực hiện nghiêm túc, dân chủ, công khai,
minh bạch theo đúng các quy định của Đảng.
- Tiếp tục quán triệt, tổ
chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Quyết định số 20/2019/QĐ-UBND ngày 06/12/2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh ban
hành Quy định về thực hiện nếp sống văn hóa trên địa bàn tỉnh Thái Bình; đẩy mạnh phong trào “Cán bộ, công chức, viên chức thi đua thực hiện văn hóa công sở”; phong trào “Thi đua lao động giỏi, lao động sáng tạo”.
3.4. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, nâng
cao hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở
Hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao đóng
vai trò quan trọng xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phát huy các giá trị
văn hóa, con người. Tuy nhiên, hệ thống thiết chế văn hóa và công tác quản
lý thiết chế văn hóa, thể thao hiện nay vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế. Hệ thống
thiết chế văn hóa ở nhiều nơi trong tình trạng xuống cấp, chắp vá, thiếu đồng bộ
và hiệu quả sử dụng còn thấp. Vì vậy, để tăng cường đầu tư cơ sở vật chất,
nâng cao hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở cần thực
hiện tốt các giải pháp sau:
- Tập trung hoàn
thiện cơ chế chính sách nhằm tăng cường sự quản lý điều hành kịp thời, chặt chẽ
của chính quyền các cấp, nâng cao năng lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo các tổ
chức Đảng đối với lĩnh vực văn hóa, thể thao. Đồng thời xây dựng các cơ chế
chính sách đặc thù, phù hợp đối với lĩnh vực văn hóa, thể thao nhằm thu hút các
nguồn lực để phát triển văn hóa, thể thao.
- Hoàn thiện, nâng
cấp hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở bao gồm: tăng cường cơ sở vật
chất, trang thiết bị hoạt động, bộ máy tổ chức, cơ chế, chính sách hoạt động
đào tạo cán bộ làm công tác văn hóa, thể thao. Tăng cường công tác đào tạo, bồi
dưỡng kiến thức về văn hóa, thể thao đối với đội ngũ cán bộ làm công tác văn
hóa - xã hội cấp xã; mở các lớp tập huấn về công tác quản lý văn hóa, thể thao
cho đội ngũ cán bộ văn hóa, các nghệ nhân, cộng tác viên ở cơ sở.
- Tăng cường kêu
gọi sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế đầu tư cho các công trình văn hóa, thể
thao của địa phương. Đẩy mạnh thu hút nguồn kinh phí đầu tư từ các tổ chức, cá
nhân trong và ngoài nước với hình thức đầu tư hợp tác công tư (PPP) để xây dựng
cơ sở thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở gắn với mở rộng dịch vụ và thị trường.
- Thường xuyên quan
tâm đầu tư kinh phí để duy tu, bảo dưỡng cơ sở vật chất nhằm chống xuống cấp
các công trình văn hóa, thể thao. Tăng mức đầu tư kinh phí cho hoạt động của
các thiết chế văn hóa, thể thao. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia
đầu tư và hỗ trợ đầu tư vào lĩnh vực văn hóa, thể thao và các hoạt động văn
hóa, thể thao, khuyến khích, hỗ trợ phát triển kinh doanh dịch vụ Thể dục - Thể
thao như: Miễn giảm thuế, hỗ trợ về cộng tác viên, hướng dẫn viên cho các Câu
lạc bộ, điểm tổ chức hoạt động Thể dục Thể thao. Huy động nhân dân trong việc
xây dựng các thiết chế văn hóa cơ sở cùng với sự hỗ trợ của nhà nước.
3.5. Phát triển nguồn nhân lực văn hóa, trước hết là lĩnh vực giáo dục -
đào tạo, khoa học - công nghệ và phát triển văn hóa
Là vùng đất giầu truyền thống văn hóa,
văn hiến, nơi sản sinh nhiều anh hùng hào kiệt nên tiềm năng phát triển nguồn
nhân lực sáng tạo văn hóa ở Thái Bình vô cùng dồi dào, phong phú. Từ Cách mạng
tháng Tám năm 1945 đến nay, đội ngũ cán bộ văn hóa, văn nghệ sĩ Thái Bình ngày
thêm hùng hậu. Ngoài lực lượng trực tiếp làm văn hóa ở tỉnh thì dường như ở hầu
hết các cơ quan, đơn vị văn hóa, nghệ thuật từ Trung ương đến các tỉnh, thành
phố vào thời điểm nào cũng đều có con em Thái Bình; trong đó có những văn nghệ
sĩ nổi tiếng trong và ngoài nước ở nhiều lĩnh vực văn học nghệ thuật; sáng tác,
biểu diễn, sân khấu, ca nhạc, điện ảnh...Tuy nhiên, thực trạng sự nghiệp phát
triển văn hóa và nguồn nhân lực trực tiếp làm văn hóa ở Thái Bình cũng đang bộc
lộ khá nhiều hạn chế, bất cập. Đội ngũ cán bộ làm văn hóa tuy đông nhưng chưa mạnh;
năng lực, trình độ chuyên môn chưa đồng đều; nguồn nhân lực có chuyên môn nghiệp
vụ giỏi còn trống vắng ở một số lĩnh vực. Những cơ chế, chính sách thu hút, trọng
dụng nhân tài để bổ sung cho nguồn lực văn hóa của tỉnh chưa đủ sức hấp dẫn. Nội
dung, phương thức và những chế định về đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực còn
bất cập…
Để tạo được bước đột phá phát triển nguồn
nhân lực văn hóa đáp ứng được nhu cầu của sự nghiệp xây dựng, giữ gìn, chấn
hưng và phát triển văn hóa trong thời kỳ mới ở Thái Bình cần thực hiện tốt một
số giải pháp sau:
- Hoàn thiện hệ
thống cơ chế, chính sách đào tạo, tuyển dụng, bồi dưỡng, sử dụng, trọng dụng
nguồn nhân lực văn hóa; trong đó chú trọng những cơ chế, chính sách thu hút tài
năng văn hóa để bổ sung cho nguồn nhân lực, nhất là văn nghệ sĩ, chuyên gia văn
hóa ở các lĩnh vực đặc thù. Đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực văn hóa đáp
ứng yêu cầu hội nhập, chuyển đổi số, phát triển nền kinh tế, xây dựng xã hội số.
- Có chính sách đầu
tư, nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ cho các cơ sở đào tạo văn
hóa, nghệ thuật; khuyến khích xã hội hóa và đa dạng hóa các loại hình đào tạo
văn hóa, nghệ thuật. Đẩy mạnh thu hút nhân lực chất lượng cao làm việc trong
các thiết chế văn hóa như: Trường Cao đẳng văn hóa nghệ thuật Thái Bình, Nhà
hát Chèo Thái Bình, thư viện, bảo tàng, trung tâm văn hóa...
- Đổi mới phương
thức đào tạo, hoàn chỉnh hệ thống chương trình, giáo trình, tài liệu tham khảo
cho các loại hình văn hóa, nghệ thuật. Chú trọng công tác quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ văn nghệ sĩ; nâng cao năng lực của đội ngũ giảng viên, cán bộ
quản lý giáo dục của các cơ sở đào tạo văn hóa, nghệ thuật và các cơ sở giáo
dục đào tạo khác có chương trình đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về văn hóa, nghệ
thuật.
- Tạo mọi điều
kiện thuận lợi để đội ngũ văn nghệ sĩ hoạt động, phát huy khả năng sáng tạo
nghệ thuật, xây dựng các tác phẩm có chất lượng cao; xây dựng chính sách đào
tạo và sử dụng cán bộ văn hóa phù hợp, có trình độ chuyên môn cao, năng lực,
phẩm chất bảo đảm ở tất cả các cấp. Khuyến khích nghệ sĩ, nghệ nhân tham gia
giảng dạy; tăng phụ cấp giảng dạy, phụ cấp biểu diễn cho giảng viên, nghệ sĩ,
nghệ nhân, nhất là các bộ môn nghệ thuật truyền thống ở Thái Bình như chèo, múa
rối nước...
4. Xây dựng hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Thái Bình mới, gắn kết
chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại
Xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ
giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
xác định: “Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị
quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người... Việt Nam trong thời kỳ
mới”. Đây là vấn đề cốt lõi mang tính định hướng việc xây dựng, phát huy giá
trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam những năm tới. Mặt khác, quá trình
phát triển văn hóa, con người phụ thuộc rất lớn vào việc xây dựng hệ giá trị
quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam. Trong điều kiện
đất nước đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế sâu
rộng, việc xác định xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, chuẩn mực
con người Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình củng cố, bổ sung
các giá trị văn hóa, phát triển nhân cách con người Việt Nam.
Với Thái Bình, do những đặc trưng về tự nhiên và dân cư
chi phối nên từ truyền thống đến hiện tại, Thái Bình luôn là tỉnh nông nghiệp
điển hình, là chiếc nôi hội tụ và tỏa sáng tinh hoa văn hóa của nhiều vùng miền
mang sắc thái đậm nét tinh hoa văn hóa
châu thổ Bắc Bộ. Các sắc thái văn hóa, văn minh nông nghiệp đã đến sớm, đi muộn
ở miền quê này. Đồng đất và con người Thái Bình vốn rất giàu tiềm năng, tiềm lực
về văn hóa, văn hiến. Bề dày văn hóa truyền thống được vun đắp và lưu giữ trong
kho tàng văn hóa làng ở Thái Bình đã và đang là một trong những điểm tựa để xác
định hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị con người nơi đây. Tuy nhiên, trong thời kì
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế gắn
với đô thị hóa đang ngày càng diễn ra mạnh mẽ; đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu
hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, dưới tác động của cơ chế thị trường, cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đã, đang và sẽ tác động sâu sắc đến các giá
trị văn hóa truyền thống. Vì vậy để bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống, để các giá trị đó thích ứng với sự biến đổi của bối cảnh tình hình mới và
để nâng tầm giá trị, bổ sung, phát triển thêm những yếu
tố mới trong hệ giá trị, đáp ứng với yêu cầu xây dựng văn hóa, con người Thái
Bình hiện nay là việc làm cần thiết; xây dựng hệ
giá trị mang bản sắc riêng, trở thành thương hiệu văn hóa, con người Thái Bình;
để văn hóa, con người trở thành nguồn lực nội sinh, sức mạnh to lớn phát triển
Thái Bình nhanh, bền vững. Trong xây dựng hệ giá trị văn hóa, con người
Thái Bình cần quán triệt quan điểm của Đảng, trên cơ sở hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị gia đình Việt Nam; đồng thời trên cơ sở các giá trị truyền thống, bản sắc riêng của đất và người Thái Bình phải hướng đến bổ sung, hoàn thiện chuẩn mực đạo
đức con người phù hợp thời kỳ mới. Trong đó cần xác định trọng tâm đó là: Xây dựng con người Thái Bình trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, với những đức tính cơ bản như: Thân thiện, nhân ái, đoàn kết; có lòng yêu
nước, tự hào, tự tôn dân tộc, ý chí tự lực tự cường và khát vọng phát triển; có
tinh thần đổi mới sáng tạo, hội nhập và phát triển.
- Thân thiện, nhân ái, đoàn kết
+ Có lối sống gần
gũi, niềm nở, tôn trọng, đối xử tốt, chân thành với người khác; luôn
lắng nghe, thấu hiểu, chia sẻ, sẵn sàng giúp đỡ, hỗ trợ người khác khi cần thiết;
văn minh, lịch sự trong giao tiếp, ứng
xử với mọi người xung quanh.
+ Biết yêu thương, tôn trọng mọi người,
có lòng bao dung, vị tha, bảo vệ chân lý, lẽ phải; sống có nghĩa có tình, tương
trợ giúp đỡ anh em, bạn bè, đồng chí, đồng nghiệp và những người xung quanh; có
trách nhiệm với xã hội, cộng đồng, luôn gắn kết
với người khác trong tình yêu thương; hiếu thảo với ông bà, cha mẹ; chăm lo xây
dựng gia đình hạnh phúc.
+ Luôn có ý thức đoàn kết, liên kết,
có trách nhiệm xây dựng và gìn giữ mối quan hệ đoàn kết, tương trợ lẫn nhau,
góp sức cùng cộng đồng xây dựng tỉnh Thái Bình
phát triển nhanh, bền vững; sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ kinh nghiệm của bản
thân, gia đình với người khác và cộng đồng.
- Lòng yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, ý chí tự lực tự
cường và khát vọng phát triển
+ Thể hiện cao độ bằng sức sáng tạo, bằng mỗi việc làm
trên tinh thần vì dân tộc, vì cộng đồng; nêu cao ý thức công dân, trách nhiệm với
bản thân, gia đình, xã hội; sống làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
+ Hiểu biết về văn
hóa quê hương, đất nước, tự giác thực hiện
bổn phận, trách nhiệm của bản thân, không ngừng nêu cao ý chí tự lực tự cường và khát vọng phát
triển Thái Bình phồn vinh, hạnh phúc; tích cực, chủ động giới thiệu, quảng bá hình ảnh quê hương, đất nước, những
nét văn hóa đặc sắc của các dân tộc trên địa bàn tỉnh với bạn bè trong nước và
quốc tế.
- Có tinh thần đổi mới sáng tạo, hội nhập và phát triển
+ Có tinh thần đổi mới trên nền tảng
khoa học công nghệ; chủ động nghiên cứu, tìm tòi
cái mới, hữu ích từ thực tế công việc và cuộc sống; từ đó, mạnh dạn áp dụng
trong học tập, lao động, sản xuất và cuộc sống để giải quyết công việc
được nhanh chóng, đạt hiệu quả, năng suất, chất lượng cao.
+ Luôn học hỏi, nâng cao kiến thức, kỹ
năng của bản thân để nắm bắt thời cơ, chủ động tham gia các hoạt động và phát
triển cùng cộng đồng; nỗ lực học tập, nghiên cứu, tích lũy kiến thức, kỹ năng,
ngoại ngữ, hiểu biết pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập của đất
nước, của tỉnh.
5. Đổi mới nội dung, phương pháp tuyên truyền,
quảng bá, giáo dục, phát huy các giá trị văn hóa, sức mạnh con người Thái Bình trong cán
bộ, đảng viên và Nhân dân
Quá trình hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng, quá trình toàn cầu hóa và cuộc cách mạng khoa học
công nghệ, bùng nổ thông tin đã thu hẹp khoảng cách, đem lại cơ hội cho mọi
người trong việc tìm hiểu, giao lưu văn hóa; tuy nhiên, cùng với cơ hội là
thách thức, đặc biệt là dưới tác động của mặt trái của kinh tế thị trường, xã
hội công nghiệp những thông tin xấu, độc hại lan truyền trên intenet, mạng xã
hội...; bên cạnh đó là âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch, phần
tử cơ hội chính trị, cùng với lối sống vị kỉ, hưởng thụ, sự tha hóa của một bộ
phận cán bộ, đảng viên... đã tác động làm xói mòn các giá trị truyền thống. Vì
vậy, để phát huy những giá trị văn hoá, con người cần phải tăng cường đổi mới,
nâng cao hiệu quả công tác giáo dục truyền thống, văn hoá, lịch sử dân tộc, địa
phương. Việc tuyên truyền, quảng bá, giáo dục, phát
huy các giá trị văn hóa, sức mạnh con người Thái Bình cần đổi mới cả về
nhận thức, nội dung, phương pháp, cách thức tuyên truyền.
- Về nhận thức:
+ Các cấp ủy,
chính quyền các cấp cần nhận thức đầy đủ vị trí, vai trò, tầm quan trọng và ý
nghĩa của việc tuyên truyền, giáo dục phát huy các giá trị, sức mạnh con người
Thái Bình trong giai đoạn hiện nay; phải coi tuyên truyền, các giá trị văn hóa,
sức mạnh con người Việt Nam chính là đã thiết thực và sâu sát trong kiến
tạo niềm tin, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan
điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới hiện nay. Tuyên truyền giáo dục
truyền thống, phát huy các giá trị văn hóa, con người Thái Bình phải được thực
hiện thường xuyên, với nhiều hình thức và nội dung phong phú, tránh tuyên
truyền theo mùa vụ, theo sự kiện; phải có chiến lược, kế hoạch tuyên truyền,
quảng bá dài hạn, bài bản, gắn tuyên truyền văn hóa với kinh tế, chính trị,
quốc phòng, an ninh, đối ngoại... Đồng thời, tuyên truyền tránh xuyên chiều,
chỉ ca ngợi mà không tuyên truyền, đấu tranh phê phán những thói hư tật xấu,
những hủ tục, phi truyền thống còn tồn tại trong văn hóa ứng xử, lối sống,
trong tư duy, nhận thức và hành động của một bộ phận cán bộ, đảng viên và các
tầng lớp Nhân dân.
+ Quan tâm đầu tư thỏa đáng cho lĩnh vực văn hóa, con người; rà soát, bổ
sung cơ chế chính sách, khuyến khích đầu tư, hỗ trợ xây dựng, trùng tu, tôn tạo
các công trình văn hóa, thiết chế văn hóa, di tích lịch sử cách mạng, di tích
lịch sử văn hóa; hoạt động nghiên cứu, khảo cổ, bảo tồn, phát huy các di sản
văn hóa; xây dựng cơ chế, chính sách đặt hàng tác phẩm văn học, nghệ thuật phản
ánh về vùng đất, con người Thái Bình.
+ Đẩy mạnh công tác
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn trên các lĩnh vực của đời sống xã hội,
nhất là việc nghiên cứu các giá trị truyền thống văn hóa, văn hiến, yêu nước,
cách mạng phục vụ việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị trong từng địa phương,
cơ quan, đơn vị. Chú trọng vận dụng sáng tạo những nhận thức mới, mô hình mới,
cách làm hay, hiệu quả mang tính đột phá của thực tiễn vào trong giáo dục truyền
thống.
+ Tăng cường công tác phối hợp
giữa các cấp, các ngành, các địa phương, cơ quan, đơn vị trong thực hiện công tác tuyên truyền; phát huy vai trò, trách nhiệm nêu
gương của người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên trong việc tuyên truyền, giáo dục
truyền thống ở cấp mình phụ trách. Xây dựng và nhân rộng các mô hình
người tốt, việc tốt; mô hình dân vận khéo; phong trào giúp nhau phát triển kinh
tế, giảm nghèo; việc vận động Nhân dân nâng cao ý thức chấp hành luật pháp; việc
thực hiện nếp sống văn minh đô thị, nếp sống văn minh trong việc cưới, việc
tang, lễ hội.
- Về nội dung:
+ Tăng cường việc
sưu tầm, nghiên cứu, biên tập, xuất bản sách lịch sử, các ấn phẩm tài liệu phục vụ cho công tác giáo dục truyền thống văn hóa, văn hiến, yêu
nước, cách mạng trong các nhà trường, trong các tổ chức, đoàn thể nhằm bồi
dưỡng, khơi dậy niềm tự hào về quê hương Thái Bình trong cán bộ, đảng viên và
các tầng lớp nhân dân, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa truyền thống
của quê hương.
+ Đẩy mạnh sưu tầm, khảo cổ, nghiên cứu, phục dựng, bảo tồn và phát huy các
loại hình di sản văn hóa phi vật thể, nhất là nghệ thuật chèo, múa rối nước, ca
trù, hát xẩm, trò chơi dân gian và các di sản có nguy cơ mai một; gìn giữ, khai
thác, phát huy giá trị các di sản văn hóa quốc gia và di sản văn hóa quốc gia
đặc biệt; bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống. Tích cực ứng dụng
công nghệ thông tin và các thành tựu khoa học, kỹ thuật trong việc xây dựng cơ
sở dữ liệu điện tử phục vụ công tác quản lý, bảo tồn, quảng bá, tra cứu các giá
trị văn hóa truyền thống của tỉnh.
+ Chú trọng xây dựng các thương hiệu sản phẩm, sản vật
mang dấu ấn văn hóa Thái Bình để phục vụ du lịch, phát triển kinh tế, xã hội và
tuyên truyền, quảng bá đến mọi miền Tổ quốc và bạn bè quốc tế. Tăng cường mở rộng giao lưu, quảng bá, hợp tác quốc tế về lĩnh vực văn hóa
nhằm phát huy truyền thống văn hóa, văn hiến, yêu nước, cách mạng của tỉnh;
đồng thời, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại để làm giàu thêm truyền
thống và bản sắc văn hóa Thái Bình.
+ Khuyến khích tổ chức các cuộc thi tìm hiểu, sáng tạo
khoa học, công nghệ; sáng tác văn học, nghệ thuật với những chủ đề về truyền thống
lịch sử, truyền thống văn hóa, văn hiến, yêu nước, cách mạng phục vụ các nhiệm
vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, góp
phần bảo tồn, phát huy các giá trị truyền thống và đáp ứng nhu cầu hưởng thụ
giá trị văn hóa tinh thần ngày càng cao của nhân dân.
+ Tăng cường tuyên truyền về những sự kiện và danh nhân lịch
sử, văn hóa mà quê hương Thái Bình là nơi sinh ra, nuôi dưỡng và chở che; tuyên truyền đi sâu khai thác các giá trị truyền thống và những di sản văn hóa đặc sắc; truyền thống
lao động sản xuất, thâm canh lúa nước và phát triển nghề thủ công nghiệp của
vùng đất, con người Thái Bình; đồng thời, quán triệt sâu sắc và thực hiện có hiệu
quả các quan điểm, đường lối của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn
hoá, gắn với việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XIII và kết luận của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị
văn hóa toàn quốc. Xây dựng và củng
cố niềm tự hào trong từng cá nhân, từng gia đình, dòng họ, trong mỗi thôn làng,
trong từng địa phương, cơ quan, đơn vị, nhất là trong hệ thống giáo dục quốc
dân về truyền thống của quê hương, đất nước; ý thức trách nhiệm giữ gìn, phát
huy giá trị truyền thống, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm
quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị của tỉnh.
+ Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính
trị tư tưởng, giáo dục truyền thống theo quy định, đồng thời, chú trọng đưa những
giá trị truyền thống văn hóa, văn hiến, yêu nước, cách mạng của quê hương Thái
Bình vào chương trình giảng dạy trong các nhà trường để giáo dục, bồi đắp, xây
dựng các thế hệ người Thái Bình giàu lòng yêu nước, tự lực, tự cường; kiên định
lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có đạo đức cách mạng, ý thức chấp
hành pháp luật, sống có văn hoá, vì cộng đồng; có sức khỏe, tri thức, có năng lực,
bản lĩnh, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
- Vê phương pháp:
+ Không ngừng đổi
mới và nâng cao việc giảng dạy môn lịch sử địa phương và dân tộc trong các nhà
trường bằng việc xây dựng mô hình minh họa về các sự kiện lịch sử. Giáo dục
lịch sử bằng nhiều hình thức chứ không phải chỉ dừng lại ở bài giảng mà phải
kết hợp nhiều hình thức khác nhau như việc tham quan di tích lịch sử cách mạng,
tham quan bảo tàng; lồng ghép những bộ phim tư liệu lịch sử vào bài giảng. Sân
khấu hóa, điện ảnh hóa các sự kiện và nhân vật lịch sử. Tổ chức các cuộc thi
tìm hiểu nhân các ngày lễ kỷ niệm nhằm khơi dậy ý thức tự hào tự tôn dân tộc
trong thế hệ trẻ. Tổ chức ngoại khóa với các cựu chiến binh, những nhân vật,
nhân chứng lịch sử, gặp mặt giao lưu nói chuyện với những người tham gia chiến
đấu…Đưa nội dung lịch sử vào các cuộc thi là một hình thức khuyến khích thế hệ
trẻ tìm hiểu lịch sử, văn hóa quê hương, đất nước. Từ đó làm cho thế hệ trẻ
thấy một cách tự nhiên rằng hiểu biết lịch sử là một tiêu chuẩn đánh giá sự
uyên bác và trí tuệ.
+ Chú trọng giáo dục
đạo đức, nhân cách, kỹ năng sống, giáo dục truyền thống cách mạng, lịch sử địa
phương và ngăn ngừa tệ nạn xã hội, bạo lực học đường xâm nhập vào nhà trường, để
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
+ Đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền và phát huy vai
trò của hệ thống thông tin đại chúng, mạng xã hội trong tuyên truyền, giáo dục
truyền thống văn hóa, văn hiến, yêu nước và cách mạng; phổ biến, giáo dục về Luật
Di sản văn hóa; giới thiệu, quảng bá các giá trị truyền thống và những đóng góp
to lớn của nhân dân Thái Bình đối với sự phát triển nền văn hóa dân tộc. Phát
hiện và biểu dương những tập thể, cá nhân tiêu biểu người Thái Bình trong xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, trong các phong trào thi đua yêu nước ở các địa phương, cơ
quan, đơn vị.
III. TRÁCH
NHIỆM CỦA CÁC NGÀNH, GIỚI TRONG PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HOÁ, CON NGƯỜI THÁI
BÌNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1. Đối với cấp ủy, tổ chức Đảng,
chính quyền, các tổ chức cơ quan, đơn vị
- Xây dựng kế hoạch, tổ chức học
tập, quán triệt, tuyên truyền, phổ biến sâu rộng nội dung Chuyên đề năm 2023 tới cán bộ, đảng viên, đoàn viên,
hội viên, chiến sĩ lực lượng vũ trang và các tầng lớp Nhân dân.
- Đưa nội dung cụ
thể về nhiệm vụ phát triển văn hóa, con người vào các nghị quyết, chương trình
công tác hằng tháng, hằng quý và cả năm của từng cấp, từng ngành, đoàn thể để định
hướng lãnh đạo, chỉ đạo; căn cứ vào điều kiện thực tiễn và
chức năng, nhiệm vụ của từng địa phương, cơ quan, đơn vị để cụ thể hóa việc phát huy các giá trị văn
hóa, sức mạnh con người thành những mục tiêu cụ thể, gắn với nhiệm của
tổ chức, cá nhân trong kế hoạch công tác, góp phần đưa Thái Bình
trở thành tỉnh phát triển nhanh, bền vững.
- Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện tốt Quyết định số 1847/QĐ-TTg ngày 27/12/2018 của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt Đề án Văn hóa công vụ, với mục tiêu là “Nâng cao văn hóa công vụ, góp phần hình
thành phong cách ứng xử, lề lối làm việc chuẩn mực của đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức; đảm bảo tính chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh bạch,
hiệu quả trong hoạt động thực thi nhiệm vụ, công vụ; đáp ứng yêu cầu phục vụ
Nhân dân, xã hội.”. Xây dựng nền hành chính chuyên
nghiệp, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, liêm chính, phục vụ Nhân dân; xây
dựng văn hóa công sở, cụ thể hóa thành những quy định, quy chế, trọng tâm đó là
xây dựng nền đạo đức công vụ, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức
có phẩm chất đạo đức, tận tụy, có ý thức trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ, hết
lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân; xây dựng môi trường văn hóa công
sở lành mạnh, dân chủ, đoàn kết, nhân
văn. Tiếp tục xây dựng và thực hiện tốt quy chế dân chủ trong hoạt động
cơ quan, tạo sự đoàn kết, thống nhất, phát huy cao độ nguồn lực, sức mạnh của đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
- Tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện,
đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng cách mạng, phẩm chất đạo đức,
lối sống, lịch sử, truyền thống văn hoá của quê hương, đất nước. Ngăn chặn, đẩy
lùi xu hướng phai nhạt bản sắc văn hóa dân tộc, sự xâm nhập của các trào lưu và
các sản phẩm văn hóa độc hại; đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc
của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Quan tâm giáo dục, bồi dưỡng khát vọng xây dựng quê hương, đất nước
giàu mạnh trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ.
- Quan tâm đầu tư, bố trí ngân sách và huy động các nguồn lực xã hội hoá để
phục vụ cho công tác giáo dục, phát huy truyền thống văn hóa, văn hiến, yêu
nước, cách mạng cũng như việc bảo tồn, khôi phục, phát huy những di sản văn hóa
vật thể và phi vật thể đặc sắc của tỉnh.
- Thường xuyên kiểm tra, giám sát
việc thực hiện các chương trình, kế hoạch, các mục tiêu về phát triển văn hóa,
con người; xây dựng và thực hiện môi trường văn hóa công sở, đạo đức công vụ. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, tập hợp, vận động Nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước,
thực hành dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội.
2. Đối với cán bộ, đảng viên
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên có trình độ, năng lực, phẩm chất, uy tín,
ngang tầm nhiệm vụ; có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng, năng lực
nổi trội, luôn đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách
nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành động, dám đổi
mới, sáng tạo vì lợi ích chung; có uy tín cao và thực sự tiền phong, gương mẫu,
nêu gương
trong tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng; trong thực hiện các nhiệm vụ chính
trị được giao.
- Mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên
chức phải thực hiện nghiêm văn hóa công sở và đạo đức công vụ; có phong cách
làm việc chính quy, khoa học; ứng xử chuẩn mực, có văn hóa; luôn thấu hiểu để
tham mưu giải quyết kịp thời khó khăn, vướng mắc cho người dân; xây dựng đoàn kết
nội bộ trong từng cơ quan, đơn vị; tích cực tham gia phong trào thi đua
“Cán bộ, công chức, viên chức thi đua thực hiện văn hóa công sở”; tích cực đấu
tranh phòng ngừa, ngăn chặn và chống các hành vi tham nhũng, lãng phí, tiêu
cực, quan liêu, phiền hà, sách nhiễu nhân dân.
- Đề cao vai trò
gương mẫu của người đứng đầu các đơn vị, tổ chức, cơ quan trong quá trình xây
dựng và thực thi văn hóa công vụ. Thủ trưởng các đơn vị, tổ chức, cơ quan có
vai trò quan trọng trong quá trình lãnh đạo quản lý và xây dựng văn hóa công vụ
tại đơn vị, tổ chức, cơ quan mình đang công tác; quan tâm đào tạo, phát triển
đội ngũ cán bộ, công chức, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức trẻ, tài năng, giàu nhiệt huyết cống hiến.
3. Đối
với đoàn viên, hội viên các tổ chức chính trị -xã hội
- Công nhân: Để xây dựng giai cấp công nhân của tỉnh giàu lòng yêu nước, có tri thức, văn hóa, có ý thức
tuân thủ pháp luật, đặc biệt là có ước mơ, hoài bão, khát vọng và đủ trình độ,
kỹ năng đưa đất nước hội nhập quốc tế trong tình hình mới; giai cấp công
nhân phải không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên
môn, kỹ năng nghề nghiệp; đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có tác
phong công nghiệp, kỷ luật lao động, lối sống văn minh, thích ứng với cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư; phát huy tinh thần lao động sáng tạo, ý chí tự lực,
tự cường và khát vọng phát triển quê hương giầu mạnh.
- Nông dân: Trong bối cảnh tình hình mới, nông dân cần nhận thức sâu
sắc thời cơ, thuận lợi và những khó khăn thách thức; phát huy các giá trị văn
hóa truyền thống, đồng thời đấu tranh loại bỏ các hủ tục, phi giá trị nguồn gốc
từ văn hóa nông nghiệp lúa nước; từng bước xây dựng văn hóa, văn minh làng xã
thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Xây dựng người nông dân Thái
Bình hiện đại, có ý thức công dân, tinh thần thượng tôn pháp luật; có lối sống
lành mạnh, giầu lòng nhân ái; có ý chí vươn lên, tự tin, tự lực, tự cường,
phát huy thế mạnh của quê hương, năng lực của bản
thân và cộng đồng; thi đua sản xuất - kinh doanh giỏi, đoàn kết, giúp nhau làm
giàu và giảm nghèo bền vững.
Giai cấp nông dân phải phát huy vai trò
là chủ thể tích cực trong phát triển nông nghiệp sinh thái, kinh tế nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp xanh, bền vững,
tạo ra những bước chuyển vững chắc, góp
phần xây dựng quê hương Thái Bình phát triển nhanh, bền vững. Tích cực đổi mới
tư duy trong sản xuất nông nghiệp, loại bỏ tâm lý tiểu nông, manh mún, nhỏ lẻ để
liên kết tổ chức sản xuất lớn; chuyển mạnh lối sản xuất, từ tư duy khối lượng
sang tư duy giá trị, gắn với tiếp tục thực hiện có hiệu quả chính sách nông
nghiệp, nông dân và nông thôn, xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới
kiểu mẫu, xây dựng nông thôn hiện đại, nông dân
văn minh, giầu bản sắc văn hóa.
- Phụ nữ: Để xây dựng phụ Việt Nam thời đại mới,
đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc
tế phải xây dựng người phụ nữ Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng thời đại mới,
phải gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại;
người phụ nữ thời đại mới phải có tri thức, có đạo đức, có sức khoẻ, có trách
nhiệm với bản thân, gia đình, xã hội và đất nước. Vì vậy, trên nền tảng truyền
thống “công, dung, ngôn, hạnh”, mỗi hội viên phụ nữ thời đại mới cần tiếp tục phát huy những đức tính, phâm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt
Nam như lòng yêu nước, yêu quê hương, sẵn sàng hy sinh cho Tổ quốc khi cần, có
lòng yêu thương đùm bọc lẫn nhau, thủy chung, hiếu nghĩa, hiếu học, cần cù sáng
tạo trong lao động, bất khuất, kiên cường vượt qua mọi khó khăn, thử thách,… Mỗi hội viên phụ
nữ phải khơi dậy và phát huy
truyền thống yêu quê hương, đất nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, ý chí vươn
lên cùng khát vọng bảo vệ, xây dựng, phát triển quê hương, đất nước hùng cường;
mạnh dạn
thể hiện mình với những phẩm chất đạo đức mới “tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm
đang” nhằm thích nghi, đáp ứng những yêu cầu mới của xã hội hiện đại trong tiến
trình hội nhập quốc tế.
Đặc biệt với vai trò là người vợ, người
mẹ, phụ nữ có vai trò rất lớn trong bảo tồn và phát huy hệ giá trị gia đình Việt
Nam; xây dựng gia đình văn hóa, hạnh phúc, văn minh; là lực lượng tiên phong trong
việc nâng cao chỉ số hạnh phúc của nhân dân và đóng góp quan trọng vì sự tiến bộ
của phụ nữ, bình đẳng giới. Đồng thời tích cực thực các phong trào thi đua, cuộc vận động do các cấp hội
phụ nữ phát động, như “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia
đình hạnh phúc”, “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch”, “Xây dựng người phụ
nữ Việt Nam thời đại mới”.
- Đoàn viên, thanh
niên:
Trong bối cảnh
hiện nay dưới sự tác động của mặt
trái cơ chế thị trường, xu thế hội nhập hóa, quốc tế hóa và sự biến đổi của
kinh tế xã hội; bên cạnh đó là sự chống phá của các thế lực thù địch đang hàng
ngày, hàng giờ tác động mạnh mẽ vào mọi lĩnh vực của đời sống, mọi thành phần,
giai tầng trong xã hội. Những sự thay đổi đó tác động mạnh mẽ đến văn hóa dân
tộc, bản sắc văn hóa quê hương, đặt ra những thách thức to lớn đối với việc bảo
tồn các giá trị văn hóa truyền thống. Đối tượng ảnh hưởng nhiều nhất chính là
đoàn viên, thanh niên, bởi họ là những người năng động và rất nhạy bén trong
việc tiếp thu các loại hình văn hóa. Do đó dễ thay đổi nếp sống văn hóa đã có
sẵn, vì vậy có thể nói đoàn viên, thanh niên giữ vai trò quan trọng trong việc
giữ gìn và xây dựng nếp sống văn hóa. Để phát huy các giá trị văn hóa, sức mạnh
con người, mỗi đoàn viên, thanh niên phải thực hiện
tốt một số nội dung sau:
+ Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của mình trong việc giữ
gìn và phát huy những giá trị văn hóa mà cha ông để lại. Bản thân mỗi đoàn
viên cần có ý thức tự giác trong việc trau dồi vốn hiểu biết về văn hóa dân
tộc, quê hương. Trên cơ sở
hiểu biết những cái hay, cái đẹp, những giá trị nhân văn sâu sắc của văn hóa
truyền thống, nâng lên thành niềm tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm, quyết tâm
hành động của tuổi trẻ trong việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa đó.
+ Thường xuyên tu
dưỡng, rèn luyện, bồi đắp lòng yêu nước, có ý chí tự cường, tự hào dân tộc;
có lý tưởng cách mạng, hoài bão, khát vọng vươn lên xây dựng đất nước; có đạo đức,
ý thức công dân, chấp hành pháp luật; có sức khỏe và lối sống lành mạnh; có văn
hóa, kiến thức, trình độ học vấn, kỹ năng sống, nghề nghiệp và việc làm; có ý
chí lập thân, lập nghiệp, năng động, sáng tạo, làm chủ khoa học, công nghệ…
+ Không ngừng nâng cao ý thức chính trị, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tránh phai nhạt về
lý tưởng cách mạng, xa rời chính trị; phát huy vai trò xung kích, sáng tạo, chủ
động, tích cực tham gia các phong trào văn hóa, văn nghệ ở cơ sở, cũng
như trong xây dựng cơ quan, đơn vị, khu dân cư văn hóa. Tích cực tham gia các
kỳ sinh hoạt đoàn, hội đội, các hoạt động về nguồn, tham quan di tích lịch sử,
các cuộc thi tìm hiểu lịch sử truyền thống văn hóa, cách mạng của dân tộc, quê
hương.
- Đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức:
Trong bối cảnh hội
nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, để những giá trị văn hóa dân tộc được lan tỏa theo thời gian và không gian
đòi hỏi phải có những chủ thể thực hành, bảo vệ và trao truyền các giá trị ấy.
Cố nhiên, người dân, quần chúng nhân dân là lực lượng đông đảo nhất để bảo tồn,
phát huy các giá trị văn hóa dân tộc. Nhưng đội ngũ trí thức là những người am
hiểu về các giá trị văn hóa dân tộc, có khả năng khái quát, dẫn dắt cộng đồng
trong việc thực hành văn hóa. Bằng tri thức, phương pháp, uy tín, họ không chỉ
truyền dạy cho cộng đồng cách thức thực hành văn hóa mà họ còn nâng cao nhận thức
cho cộng đồng về giá trị của sản phẩm văn hóa để từ đó chung tay bảo vệ, gìn giữ
các giá trị văn hóa. Chính vì vậy, để phát huy tốt vai trò trong việc giữ gìn,
trao truyền, lan tỏa, quảng bá các giá trị văn hóa, bản sắc văn hóa quê hương,
đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức cần thực hiện tốt nội dung sau:
+ Mỗi văn nghệ sĩ, trí thức phải không ngừng học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; rèn luyện phẩm chất, đạo đức nghề
nghiệp để “bút sắc, lòng son”; có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức trong
sáng, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, vì lợi ích chung của quốc gia,
dân tộc; khiêm tốn lắng nghe, tiếp thu ý kiến phê bình, góp ý của đồng chí, của
quần chúng. Đồng thời phải là nòng cốt áp dụng các công nghệ hiện đại như số hóa, tư liệu hóa các giá trị
văn hóa, công nghệ thực tế ảo, mô
hình hóa việc thực hành các giá trị văn hóa để nhanh chóng lan tỏa, quảng bá các gíá
trị văn hóa của dân tộc và quê hương, đưa những giá trị văn hóa đến với công chúng trong và ngoài nước.
+ Cùng với việc rèn luyện, mài sắc ngòi bút để phát huy
tài năng của mình thì các văn nghệ sĩ, trí thức phải ý thức được sứ mệnh và
trách nhiệm lớn lao của mình đối với xã hội, với thời đại; nêu cao ý thức, trách nhiệm công dân, gắn
bó sâu sắc hơn nữa với thực tiễn đất nước, địa phương, với đời sống nhân dân, không
ngừng học tập, rèn luyện, trau dồi và nâng cao nhận thức, hiểu biết, bản lĩnh
văn hóa, chính trị, vốn sống, vốn hiểu biết để sáng tạo nên nhiều tác phẩm có
giá trị, phụng sự đất nước, phụng sự nhân dân, đồng thời đáp ứng nhu cầu văn
hóa, tinh thần ngày càng cao của bạn đọc và kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và Nhân
dân.
+ Văn nghệ sĩ, trí thức là người của công
chúng, luôn có tầm ảnh hưởng sâu sắc trong xã hội. Niềm vinh dự ấy cũng đặt ra
trách nhiệm lớn lao cho văn nghệ sĩ, trí thức là cần nêu cao tinh thần trách
nhiệm, sự gương mẫu trong đấu tranh chống lại những biểu hiện sai trái, lệch lạc,
có chính kiến cá nhân chuẩn mực, tránh để các phần tử cơ hội lợi dụng, lôi kéo,
mua chuộc… Mỗi văn nghệ sĩ trí thức phải thực sự làm nòng cốt, dẫn dắt, truyền
cảm hứng chủ đạo trong việc bồi dưỡng tư tưởng, tâm hồn, tình cảm, trong sáng,
lành mạnh góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội.
- Cựu chiến
binh: Cần nhận thức sâu sắc truyền thống anh
hùng cách mạng của quê hương, giữ gìn, phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, gương
mẫu thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về
phát huy các giá trị văn hóa, sức mạnh con người; tích cực tham gia các phong
trào văn hóa ở cơ sở; tăng cường giáo dục truyền thống văn hóa, văn hiến, yêu
nước và cách mạng cho thế hệ trẻ.
4. Đối với đội ngũ doanh nhân
Đội ngũ doanh nhân được xem là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết
định nhằm thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo bước
đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu, nâng cao vị
thế của nền kinh tế Việt Nam trên trường quốc tế. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, để
phát huy các giá trị văn hóa, sức mạnh con người Thái Bình, góp phần thúc đẩy
doanh nghiệp nói riêng, kinh tế của tỉnh nói chung phát triển nhanh, bền vững,
đội ngũ doanh nhân cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau:
+ Phát huy tinh thần dân tộc, truyền
thống văn hóa, văn hiến, cách mạng của quê hương để xây dựng văn hóa doanh nghiệp, trau dồi bản lĩnh chính
trị, bản lĩnh nghề nghiệp và văn hóa, đạo đức người kinh doanh, coi đây là một
trong những nguồn lực phát triển Thái Bình nhanh, bền vững.
+ Thể hiện mạnh mẽ vai trò xung kích,
chiến sĩ đi đầu trên mặt trận phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường kết nối,
nâng cao trình độ quản trị doanh nghiệp, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị
toàn cầu, chuyển đổi số quốc gia, chống biến đổi khí hậu; tích cực chủ
động đổi mới mô hình sản xuất, kinh doanh, tái cấu trúc doanh nghiệp gắn với
phát triển theo kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, không ngừng đổi mới,
sáng tạo, xây dựng và nâng cao thương hiệu, văn hóa doanh nghiệp, doanh nhân,
nâng cao năng lực cạnh tranh.
+ Lợi nhuận chắc chắn là yếu tố sống còn của
doanh nghiệp, doanh nhân làm kinh tế luôn mong muốn tạo ra lợi nhuận, đó là
mong muốn chính đáng, cơ bản của mỗi doanh nhân, mỗi doanh nghiệp. Song phải
bảo đảm lợi ích kinh tế luôn song hành với bảo vệ môi trường và trách nhiệm xã
hội, đó là con đường duy nhất để doanh nghiệp phát triển bền vững. Tránh tư duy
manh mún, kinh doanh “chộp giật”, “ăn xổi ở thì”, chỉ hướng theo cái lợi trước
mắt, không có chiến lược lâu dài, không có văn hóa doanh nghiệp, đạo đức doanh
nhân.
Vì vậy, doanh nhân phải có
lòng yêu nước, phải có ý thức
tự lực tự cường, tự tôn dân tộc, bảo đảm đầy đủ quyền lợi cho người lao động; thể hiện trách nhiệm
xã hội, tích cực tham gia các chương trình xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp
nghĩa, an sinh xã hội, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân. Đề cao ý
thức thượng tôn pháp luật, chấp hành luật pháp trong sản xuất kinh doanh, minh bạch, công bằng, liêm chính; sáng tạo, hợp tác, cùng
phát triển; tôn trọng thiên nhiên, bảo vệ môi trường là giữ gìn thương hiệu vì sự phát triển bền vững của doanh nghiệp, trách
nhiệm với cộng đồng. Tích cực tham gia xây dựng văn hóa doanh nghiệp, phát
triển văn hóa doanh nhân để trở thành một lợi thế cạnh tranh, lợi thế thương mại
và bản sắc của doanh nhân Thái Bình trong cả nước trên sân chơi toàn cầu.
5. Đối với lực lượng vũ
trang
Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta có nhiều chiến
thắng vẻ vang, trong đó có những chiến thắng trước các thế lực đế quốc có vũ
khí, kỹ thuật quân sự hiện đại, đã chứng minh cho sức mạnh tinh thần, ý chí, bản
lĩnh, trí tuệ của dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam, đó cũng chính là chiến thắng
của sức mạnh giá trị văn hóa và con người Việt Nam. Trước những biến động phức
tạp và khó lường của bối cảnh mới hiện nay, để xây dựng, phát huy các giá trị
văn hóa, con người Việt Nam trong lực lượng vũ trang, mỗi cán bộ chiến
sĩ cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau:
+ Không ngừng bồi
đắp lòng yêu nước trong hoạt
động quân sự. Yêu nước trong hoạt động quân sự được thể hiện qua tinh
thần kiên cường, bất khuất, không sợ khó khăn, gian khổ, dám xả thân vì nghĩa
lớn, dám đứng lên chiến đấu, hy sinh vì sơn hà, xã tắc... của những người lính,
người chiến sĩ, người dân từ xưa đến nay trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước
và giữ nước của dân tộc. Đặc
biệt mỗi cán bộ chiến sĩ phải thấm nhuần văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ” với những phẩm chất cơ bản, như trung với Đảng, trung với nước,
hiếu với dân; yêu thương đồng chí, đồng đội; kỷ luật tự giác, nghiêm minh; thủy
chung, son sắt với bạn bè quốc tế; có tinh thần lạc quan cách mạng; có tinh thần
và ý chí khắc phục khó khăn; luôn hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao; kẻ thù nào
cũng đánh thắng. Đồng
thời phải am hiểu sâu sắc nghệ thuật độc đáo quân sự Việt Nam: nghệ thuật dựng binh, dụng binh… hướng toàn bộ hoạt động quân sự đến chân - thiện -
mỹ và tinh thần nhân đạo,
nhân văn “lấy đại nghĩa thắng hung tàn”, “lấy chí nhân thay cường bạo”,
với ý thức cố kết cộng đồng “tướng sĩ một lòng phụ tử”, “hòa nước sông chén
rượu ngọt ngào”; tinh thần bao dung, độ lượng, với kẻ thù khi chúng buông giáo
quy hàng.
+ Cán bộ, chiến sĩ
phải luôn nêu cao và thực hiện tốt văn hóa công vụ của công an nhân dân: “tận
tụy”, “tận tâm”, “liêm khiết”; tích cực xây dựng “Đơn vị văn hóa, gương mẫu,
chấp hành điều lệnh Công an nhân dân”. Nêu cao ý thức tổ chức kỷ luật, chấp
hành điều lệnh, giờ giấc làm việc, tuân thủ chế độ trực chỉ huy, trực ban, ứng
trực; đề cao tính tập thể trong sinh hoạt; đảm bảo trật tự nội vụ nơi làm việc,
nơi ăn, nghỉ, chỉnh trang đơn vị thật khang trang, xanh - sạch - đẹp nhằm tạo
môi trường công tác văn hoá, văn minh, lịch sự. Tích cực tham gia các hoạt động
văn hoá, văn nghệ, thường xuyên tập luyện thể dục, thể thao theo “tiêu chuẩn
rèn luyện thể lực Công an nhân dân”. Thực hiện nghiêm văn hóa ứng xử “vì nhân
dân phục vụ”, tư cách, đạo đức người Công an cách mạng: “Công an của ta là Công
an nhân dân, vì nhân dân phục vụ và dựa vào nhân dân mà làm việc”.